những tiểu luận triết học - philosophy essays (tái bản 2025)

những tiểu luận triết học - philosophy essays (tái bản 2025)

Những Tiểu Luận Triết Học - Philosophy Essays

“Bertrand Russell là một nhà triết học viết văn xuôi tiếng Anh hay nhất thế kỷ XX”

- Anthony Howard, The Times

Bertrand Russell (1872–1970) là một trong những nhà tư tưởng lớn của thế kỷ 20. Được xem là một trong những nhân vật gây tranh cãi nhất của thế kỷ này, Betrand Russell nổi tiếng về những bài biết đầy khiêu khích của mình.

Được xuất bản lần đầu vào năm 1910, Những tiểu luận triết học của Betrand Russell đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong cuộc cách mạng tư tưởng của ông. Quyển sách là tập hợp 7 tiểu luận triết học được trình bày một cách rõ ràng về các vấn đề đạo đức và chân lý. Các tiểu luận này đều là những bài in lại, có chút ít chỉnh sửa, đã được đăng trên nhiều tạp chí.

Qua 7 tiểu luận trong tác phẩm, Betrand Russell đã tiếp cận vấn đề một cách hợp lý từ đạo đức đến chủ nghĩa thực dụng với phong thái tự kiềm chế, phát biểu sáng sủa và lập luận chặt chẽ.

Theo tác giả, tất cả các tiểu luận, có lẽ ngoại trừ tiểu luận về “Lý thuyết nhất nguyên về chân lý” được trình bày sao cho thu hút được những độc giả quan tâm đến những câu hỏi triết học nhưng chưa được thụ huấn chuyên nghiệp về triết học. Bởi vì, với ông, “Khoa triết học, từ những thời kỳ xa xưa nhất, đã tuyên bố nhiều điều lớn lao, và đạt được thành quả ít ỏi, hơn bất kỳ ngành học nào khác… Nay đã đến thời có thể đặt dấu chấm hết cho tình trạng chưa lấy gì làm mãn lòng đó”.

Đây là một tác phẩm giá trị không chỉ ở những luận điểm Russell đưa ra mà còn vì “Hy hữu lắm mới có một nhân vật thạc học cao viễn chịu hạ cố bước xuống đấu trường triết học và luận chiến minh bạch nhường ấy, và nhất là với lòng cảm thông nhường ấy, đối với những lập trường ông phê bình – The Oxford Magazine”.

huyền học và logic và những tiểu luận khác - mysticism and logic and other essays

huyền học và logic và những tiểu luận khác - mysticism and logic and other essays

Huyền Học Và Logic Và Những Tiểu Luận Khác - Mysticism And Logic And Other Essays

Tập tiểu luận tuyển chọn những bài viết quan trọng của Bertrand Russell chống lại huyền học lãng mạn thế kỷ XIX, và giải quyết một số vấn đề triết học cụ thể như bản tính tối hậu của vật chất, tri thức luận, và vấn đề nhân quả.

Siêu hình học, hay nỗ lực ngõ hầu quan niệm thế giới như một toàn bộ bằng tư tưởng, ngay từ đầu đã phát triển bởi sự hội hiệp và xung đột của hai xung lực rất khác biệt của con người, một thúc đẩy họ hướng đến huyền học, một thúc đẩy họ hướng đến khoa học. Có người đạt đến vĩ đại chỉ qua một trong hai xung lực này, có người đạt đến qua xung lực kia: chẳng hạn ở Hume xung lực khoa học chi phối mà không gặp trở lực nào, trong khi ở Blake vừa có thái độ thù địch mãnh liệt đối với khoa học vừa có trực quán [insight] huyền học sâu xa. Nhưng những người vĩ đại nhất đồng thời cũng là những triết gia cảm thấy cần cả khoa học lẫn huyền học: nỗ lực điều hòa cả hai là những gì làm nên cuộc đời họ, và một số người cho rằng điều đó luôn luôn làm cho triết học trở thành vĩ đại hơn cả khoa học lẫn tôn giáo nhờ tất cả tính không chắc chắn khắc nghiệt của nó.

Bản in lần thứ mười của tập tiểu luận này có một số tiểu luận nằm trong bản in sớm hơn, giờ đây đã tuyệt bản, nhan đề là Những tiểu luận triết học. Tác giả mô tả năm tiểu luận đầu là “hoàn toàn đều mang tính phổ thông” và chúng bao gồm một số tiểu luận nổi tiếng: Huyền học và logic, Vị trí của khoa học trong một nền giáo dục khai phóng, Thờ phụng của người tự do, Học toán, Toán học và các nhà siêu hình học. Những tiểu luận sau được ông mô tả là “phần nào mang tính kỹ thuật hơn”: Về phương pháp khoa học trong triết học, Các thành phần tối hậu của vật chất, Mối quan hệ giữa những dữ-liệu-cảm-giác và vật lí học, Về ý niệm nguyên nhân, Tri thức do sự quen biết và tri thức do sự mô tả.

Bertrand Russell (1872−1970) là nhà triết học, logic học người Anh, thầy của triết gia Ludwig Wittgensten – cha đẻ của triết học phân tích Anh-Mỹ. Ông cổ vũ tự do xã hội, vận động cho nhân quyền và hòa bình, ông đồng thời là tác giả của nhiều quyển sách, tiểu luận, và bài giảng mang tính đại chúng và có ảnh hưởng về nhiều chủ đề khác nhau. Gây chú ý do những phản đối không mệt mỏi của ông đối với vũ khí hạt nhân và chiến dịch chống sự dính níu của phương Tây vào chiến tranh Việt Nam, Russell vẫn luôn là một gương mặt trí thức nổi bật cho đến khi ông qua đời ở tuổi 97.

dịch chuyển các chuỗi cung toàn cầu dưới tác động của mỹ - thách thức và cơ hội đối với việt nam

dịch chuyển các chuỗi cung toàn cầu dưới tác động của mỹ - thách thức và cơ hội đối với việt nam

Dịch Chuyển Các Chuỗi Cung Toàn Cầu Dưới Tác Động Của Mỹ - Thách Thức Và Cơ Hội Đối Với Việt Nam

Dịch Chuyển Các Chuỗi Cung Toàn Cầu Dưới Tác Động Của Mỹ - Thách Thức Và Cơ Hội Đối Với Việt Nam nghiên cứu về sự thay đổi trong cấu trúc và dòng chảy của các chuỗi cung ứng toàn cầu dưới ảnh hưởng của các chính sách kinh tế, thương mại và đối ngoại của Mỹ. Cuốn sách làm rõ các yếu tố chính thúc đẩy sự chuyển dịch của các chuỗi cung ứng, bao gồm chiến tranh thương mại, chính sách bảo hộ, xu hướng dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc, và tác động của các hiệp định thương mại tự do mà Mỹ tham gia.

Nội dung chính của cuốn sách bao gồm:

1. Tác động của chính sách Mỹ lên chuỗi cung ứng toàn cầu: Cuốn sách phân tích các yếu tố như thuế quan, chính sách khuyến khích sản xuất trong nước, và các yếu tố tác động từ chính sách đối ngoại của Mỹ, chẳng hạn như các chiến lược giảm phụ thuộc vào Trung Quốc. Điều này đã tạo ra những biến chuyển trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

2. Dịch chuyển sản xuất và đầu tư: Các quốc gia và doanh nghiệp đã phải điều chỉnh chiến lược sản xuất để tối ưu hóa chi phí và giảm thiểu rủi ro, đặc biệt khi đối mặt với chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Những quốc gia như Việt Nam có thể trở thành điểm đến hấp dẫn để thay thế các nguồn cung ứng từ Trung Quốc.

3. Thách thức và cơ hội đối với Việt Nam: Việt Nam được phân tích như một "ngôi sao sáng" trong việc đón nhận các dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, việc này cũng đặt ra nhiều thách thức, chẳng hạn như vấn đề về phát triển hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng cao, và sự cần thiết phải cải cách hệ thống pháp lý để thu hút đầu tư nước ngoài.

4. Những xu hướng và chiến lược mới: Cuốn sách còn đề cập đến các chiến lược mà Việt Nam có thể áp dụng để tận dụng tối đa cơ hội, chẳng hạn như cải thiện công nghệ sản xuất, tăng cường hợp tác với các đối tác quốc tế, và đẩy mạnh sự chuyển đổi số trong ngành sản xuất.

Cuốn sách này không chỉ cung cấp cái nhìn tổng quan về những thay đổi trong chuỗi cung ứng toàn cầu mà còn chỉ ra những cơ hội và thách thức mà Việt Nam sẽ phải đối mặt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế sâu rộng.

hàm nghi - hoàng đế lưu vong, nghệ sĩ ở alger - bìa cứng

hàm nghi - hoàng đế lưu vong, nghệ sĩ ở alger - bìa cứng

Hàm Nghi - Hoàng Đế Lưu Vong, Nghệ Sĩ Ở Alger

Ngày nay, đối với người Việt Nam, Hàm Nghi là vị anh hùng dân tộc, biểu tượng cho cuộc kháng chiến chống thực dân. Trong cuốn tiểu sử đầu tiên viết về người nghệ sĩ đặc biệt, nhân vật lịch sử có số phận phi thường này, Amandine Dabat đã kết hợp giữa góc nhìn chính trị của người Pháp với góc nhìn riêng tư có tính chất thân phận của Thân vương về chính cuộc đời ông. Lần đầu tiên các tác phẩm nghệ thuật của ông được đưa ra phân tích và nghiên cứu, sau thời gian dài lưu giữ trong các bộ sưu tập cá nhân hiếm khi được trưng bày. Việc công bố phần lớn thư từ trao đổi cá nhân của ông cũng làm sáng tỏ một phần lịch sử thuộc địa của Pháp.

Là hậu duệ đời thứ 5 của vua Hàm Nghi, chắt gái của công chúa Như Lý (con gái của vua Hàm Nghi), TS Amandine Dabat, nhà nghiên cứu Lịch sử nghệ thuật, đã dành nhiều năm nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của tổ tiên mình và bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ ở Đại Học Sorbonne Paris. Ấn bản Việt ngữ của cuốn sách Hàm Nghi – Hoàng đế lưu vong, nghệ sĩ ở Alger vừa ra mắt bản đọc Việt Nam tháng 10 năm 2024 (Nxb Khoa học xã hội), được dịch từ bản gốc tiếng Pháp Hàm Nghi – Empereur en exil, artiste à Alger do Nxb Sorbonne ấn hành năm 2019. Cuốn sách có lời giới thiệu của bà Nora Taylor, Giáo sư về Nghệ thuật Đông Nam Á tại Viện Nghệ thuật Chicago, Hoa Kỳ.

Với thân phận lưu đày, Hàm Nghi đã chọn sống cả đời vì nghệ thuật, và đã tạo dựng được một không gian tự do của riêng mình qua hội họa và điêu khắc. Thân vương đã có những tiếp xúc mang tính bản lề về nghệ thuật với giới nghệ sĩ và trí thức đương thời như Auguste Rodin, Judith Gautier, Marius Reynaud, Paul Gauguin, nhóm họa Nabis… và đã cho ra đời nhiều tác phẩm có tính giao thoa giữa các nền văn hóa. Cuốn sách này cho ta khám phá những tác phẩm hội họa, điêu khắc của Hàm Nghi, những khía cạnh nghệ thuật ít được biết đến của vị hoàng đế, một trong những nghệ sĩ để lại dấu ấn lớn trong nền mĩ thuật cận hiện đại của Việt Nam đầu thế kỉ 20.

nhà ở cổ truyền các dân tộc việt nam - bìa cứng

nhà ở cổ truyền các dân tộc việt nam - bìa cứng

Nhà Ở Cổ Truyền Các Dân Tộc Việt Nam - Bìa Cứng

Trong đời sống văn hóa của các dân tộc Việt Nam hay bất kỳ một dân tộc nào trên thế giới, vấn đề “Mặt bằng sinh hoạt” vẫn luôn là một chủ đề phức tạp nhưng đầy thú vị và được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Và bốn chữ “Mặt bằng sinh hoạt” đó cũng chính là kết quả nghiên cứu cả đời của PGS TS. Nguyễn Khắc Tụng khi ông dốc trọn tâm huyết khảo cứu về nhà ở truyền thống của các tộc người ở Việt Nam.

Vấn đề truyền thống – hiện đại vẫn diễn ra xuyên suốt trong chiều dài lịch sử. Những sự vật, hiện tượng hay cụ thể là nhà ở khi trải qua thời gian đều sẽ có sự biến đổi, và những điều biến đổi ấy đều sẽ dần trở nên “hiện đại”, để lại những nét xưa cũ với tên gọi là “truyền thống”. Tuy nhiên, để giữ được bản sắc dân tộc, để hiểu hơn về tinh hoa của thời đại, những người làm kiến trúc cần có được hiểu biết sâu sắc về những điều “truyền thống” ấy, để rồi kết hợp với “hiện đại”, nhằm tạo ra những công trình thật đặc biệt và mang tính lưu giữ văn hóa cao. Đây cũng là điều PGS. TS. Nguyễn Khắc Tụng mong muốn khi viết nên cuốn sách này.

Trong bối cảnh những năm 1978 khi tư liệu còn ít, chưa có độ chuyên sâu, chủ yếu vẫn còn là hình ảnh hoặc bài đăng ngắn trên các sách báo, tạp chí thì tác giả đã “lấp đầy” bằng những kiến thức chuyên sâu hơn, chuyên nghiệp hơn, bài bản hơn qua quá trình thực địa và phân loại của mình. Nhờ đó, cuốn sách Nhà Ở Cổ Truyền Các Dân Tộc Việt Nam đã khái quát thành công những đặc điểm cũng như giá trị của nhà ở cổ truyền của các dân tộc Việt Nam. Và theo như chia sẻ của PGS. TS. Vương Xuân Tình (Nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học) thì cuốn sách: “Không chỉ có giá trị về nghiên cứu văn hóa tộc người, mà còn gợi mở một hướng nghiên cứu liên ngành để phục vụ kiến trúc và xây dựng nhà ở của các dân tộc Việt Nam hiện nay”.

Vậy nhà ở cổ truyền của các dân tộc tại Việt Nam có những đặc điểm gì, từ người Hmông trên đỉnh núi cao bốn mùa mây phủ, người Sán Dìu trên đất trung du sỏi đá, người Thượng trên cao nguyên đất đỏ lồng lộng gió ngàn, cho đến người Việt, người Khơ-me trên những cánh đồng châu thổ thẳng cánh cò bay…

giáo dục pháp - việt ở bắc kỳ (1884-1945)

giáo dục pháp - việt ở bắc kỳ (1884-1945)

Giáo Dục Pháp - Việt Ở Bắc Kỳ (1884-1945)

Bằng cách kết hợp sử dụng các nguồn tài liệu khá phong phú, trong đó có những tài liệu chưa từng được khai thác trước đó, TS. Trần Thị Phương Hoa đã biên soạn nên cuốn sách “Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945)”.

Cuốn sách bàn về những đặc điểm lý luận và thực tiễn về sự hình thành và phát triển của giáo dục Pháp – Việt kiểu mới ở Việt Nam khi tư tưởng giáo dục phương Tây tràn vào nước ta theo gót chân thực dân Pháp, hàng loạt các trường học Pháp – Việt ở Bắc Kỳ được mở ra với những mục đích chính trị. Một số nhà lý luận giáo dục như Philip Albatch và Gail Kelly cho rằng: “trường học [thực dân] bị tách ra khỏi nền văn hóa bản địa về ngôn ngữ và các giá trị xã hội”. Thế nhưng, thực tiễn giáo dục Pháp – Việt ở Việt Nam lại cho thấy điều ngược lại.

Cuốn sách “Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ (1884-1945)” sẽ cung cấp cho bạn đọc thêm nhiều luận cứ và tài liệu để khẳng định vai trò quan trọng của các trí thức được đào tạo từ nhà trường Pháp – Việt không chỉ trong việc tiếp nhận một nền giáo dục hiện đại mà còn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

tiếp nhận levtolstoy ở việt nam

tiếp nhận levtolstoy ở việt nam

Tiếp Nhận Levtolstoy Ở Việt Nam

Đọc tác phẩm văn học Nga, bạn sẽ sống cùng niềm tin của văn hào Nga Lev Tolstoy trong pho tiểu thuyết đồ sộ Chiến tranh và hòa bình về số phận nước Nga, qua việc mô tả bộ mặt tinh thần của dân tộc Nga những năm oanh liệt đầu thế kỷ XIX. Trong chuyến du lịch vào thế giới tinh thần của dân tộc Nga, bạn hãy đến trang trại Iasnaia Paliana, nơi Tolstoy sinh thành và yên nghỉ, ngắm bầu trời cao xanh lồng lộng của công tước Andrey. Vào những đêm trăng yên tĩnh đâu đó, bạn vắng nghe giọng nói hồn nhiên và thánh thót của thiếu nữ - chắc là cô Natasha, đang say ngắm bầu trời trăng nơi trang trại Ostratnoie, để khơi dậy nghị lực sống của anh chàng Andrey tưởng đã khô như cây sồi mùa đông dạo nọ, để sống hạnh phúc và đầy trách nhiệm ở tuổi ba mươi mốt của chàng. Bạn cùng chia sẻ niềm vui với những cô gái Nga trong đêm vũ hội đầu tiên, về làng quê những ngày đầu thu có những cuộc đi săn hấp dẫn, tìm về với đời sống văn hóa lâu đời của dân tộc Nga qua điệu vũ “Chiếc khăn san” hay thưởng thức tiếng đàn balalaica của chàng xà ích.

Trong hoàn cảnh đất nước hòa bình, thống nhất, những tác phẩm của L.Tolstoy mang đến sự trải nghiệm thú vị cho độc giả Việt Nam trong hoàn cảnh mới.

người đứng đầu thăng long-hà nội trong lịch sử

người đứng đầu thăng long-hà nội trong lịch sử

Người Đứng Đầu Thăng Long-Hà Nội Trong Lịch Sử

Xuyên suốt chiều dài lịch sử Việt Nam từ buổi đầu thời phong kiến tự chủ, Thăng Long - Hà Nội luôn giữ một vị thế rất trọng yếu. Trong hơn 700 năm, từ đời vua Lý Thái Tổ đến đời vua Lê Chiêu Thống, Thăng Long là Kinh đô, trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa - giáo dục của cả nước, nơi các cơ quan đầu não của Nhà nước phong kiến Đại Việt đóng qua các triều: Lý - Trần - Lê sơ - Mạc và Lê-Trịnh.

Vì là trung tâm đầu não của đất nước, có không ít cuốn sách viết về Thăng Long - Hà Nội từ các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, xuyên suốt chiều dài gần một nghìn năm lịch sử của Thăng Long - Hà Nội, chỉ dưới thời Nguyễn, từ khi tỉnh Hà Nội được thành lập đến khi thực dân Pháp lập thành phố Hà Nội, những ghi chép về người đứng đầu đơn vị hành chính này mới xuất hiện thường xuyên hơn trong các trang sử; còn các thời kỳ trước đó, tư liệu về chức quan và các vị quan này trong chính sử thiếu hệ thống, phần vì do phương pháp chép sử thời phong kiến và phần vì ở một số thời kỳ, người đứng đầu chính quyền Thăng Long chỉ là một chức quan nhỏ, hành trạng của khá nhiều vị quan không thật sự nổi bật.

Tiêu đề cuốn sách này, Người đứng đầu Thăng Long - Hà Nội trong lịch sử, đã phô lộ ý định của tác giả: tìm hiểu lịch sử Thăng Long - Hà Nội từ đầu thời Lý (thế kỷ XI) từ hướng tiếp cận người đứng đầu cơ quan chính quyền. Đây là hướng tiếp cận khác so với các công trình nghiên cứu về Thăng Long - Hà Nội trước đây. Ở mỗi thời kỳ lịch sử có nhà nước của mọi quốc gia, người đứng đầu đất nước cũng như các đơn vị hành chính trực thuộc đều giữ vai trò rất quan trọng. Năng lực làm việc cùng phẩm chất đạo đức của họ có tác động lớn đến sự ổn định và phát triển của quốc gia, địa phương. Đối với các đơn vị hành chính giữ vị trí trọng yếu - như Kinh đô, Thủ đô thì năng lực, phẩm chất và các hoạt động cụ thể của người đứng đầu không chỉ quyết định phần quan trọng đến sự phát triển của đơn vị đó, mà còn ảnh hưởng lớn đến các mặt đời sống của đất nước.

Người đứng đầu Thăng Long - Hà Nội trong lịch sử là một tác phẩm công phu, chi tiết từ tổ chức bộ máy hành chính đến vai trò của những người đứng đầu Thăng Long - Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử, từ thời phong kiến đến hiện đại. Cách tiếp cận vấn đề này đã giúp phản ánh được cung cách quản lý, sự phát triển của Thăng Long - Hà Nội cũng như ảnh hưởng của đô thị này đối với các mặt đời sống của đất nước qua các thời kỳ lịch sử.

Phần thứ nhất đi sâu vào việc tìm hiểu những người đứng đầu Thăng Long - Hà Nội trong suốt các triều đại phong kiến. Nội dung phần này được chia thành ba chương, bắt đầu với giai đoạn từ nhà Lý đến thời thuộc Minh (1010-1428), nơi các triều đại lớn như Lý, Trần, Hồ và chính quyền đô hộ của nhà Minh lần lượt ghi dấu ấn lên vùng đất kinh kỳ. Tiếp đó, phần này xem xét giai đoạn từ thời Lê sơ, nhà Mạc, Lê-Trịnh cho đến triều Tây Sơn (1428-1802), một thời kỳ với nhiều biến động chính trị và sự chuyển giao quyền lực giữa các thế lực. Chương cuối cùng của phần này tập trung vào thời kỳ nhà Nguyễn (1802-1884), khi Hà Nội chứng kiến những thay đổi lớn từ mô hình chính quyền phong kiến sang hệ thống hành chính có yếu tố hiện đại hóa.

Phần thứ hai của cuốn sách tiếp tục theo dòng chảy lịch sử, tập trung vào những người đứng đầu Hà Nội trong thời cận đại và hiện đại. Giai đoạn này bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc (1884-1945), khi chính quyền thuộc địa áp dụng các chính sách khai thác thuộc địa và thực hiện đô thị hóa, biến Hà Nội trở thành trung tâm hành chính và kinh tế quan trọng. Sau đó, cuốn sách bàn về thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến kết thúc kháng chiến chống Pháp năm 1954, một giai đoạn đầy biến động với sự chuyển đổi từ chế độ thuộc địa sang chính quyền cách mạng. Cuối cùng, phần này khép lại bằng việc ghi nhận những thay đổi trong bộ máy lãnh đạo của Hà Nội từ khi hòa bình lập lại vào năm 1954 cho đến hiện nay, phản ánh sự phát triển không ngừng của thủ đô qua các thời kỳ lịch sử và địa giới hành chính thay đổi.

Phụ lục của sách cung cấp các tài liệu tham khảo, bao gồm sách, bài báo, tài liệu lưu trữ và tư liệu điền dã, đồng thời giải nghĩa các thuật ngữ liên quan đến thiết chế nhà nước và bộ máy hành chính qua từng giai đoạn.

Người đứng đầu Thăng Long - Hà Nội trong lịch sử không chỉ là một nguồn tư liệu quý giá về lịch sử hành chính của Thăng Long - Hà Nội mà còn giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về sự phát triển của thành phố, nơi đã chứng kiến và gánh vác những dấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ:

Bùi Xuân Đính (tháng 10/1953) là một chuyên gia nghiên cứu chuyên sâu về làng xã và Hà Nội. Ông quê ở xã Thạch Thán, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tốt nghiệp Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1978, bảo vệ Luận án Phó Tiến sĩ năm 1997; được phong học hàm Phó Giáo sư năm 2006.

Một số tác phẩm tiêu biểu:

- Lệ làng phép nước, Nxb. Pháp lý, 1985.

- Hương ước và quản lý làng xã, Nxb. Khoa học - xã hội, 1998.

- Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội), truyền thống và biến đổi (Chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, 2009.

- Bách khoa thư làng Việt cổ truyền, Nxb. Chính trị quốc gia, 2021.

- Hành trình về làng Việt cổ truyền (Chủ biên) 2 tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2023.

- Các làng khoa bảng Thăng Long - Hà Nội (Đồng Chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, 2004, 2010.

- Giáo dục và khoa cử Nho học Thăng Long - Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 2010.

- Bách khoa thư vùng Hà Nội mở rộng (Tập 6. Giáo dục) (Đồng Chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, 2017.

- Địa chí Hoài Đức (Tổng Chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, 2018.

sự can dự an ninh của mỹ với đông nam á dưới thời chính quyền bill clinton và george w.bush

sự can dự an ninh của mỹ với đông nam á dưới thời chính quyền bill clinton và george w.bush

Đôi nét về Tác giả Phạm Cao Cường: 

Tác giả Phạm Cao Cường hiện là Phó Viện trưởng phụ trách Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á (VIISAS) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (VASS). Nhận học vị cử nhân Quan hệ quốc tế năm 2000 tại Học viện Ngoại giao Việt Nam. Nhận học vị Tiến sĩ về Chính trị học và Quan hệ quốc tế năm 2010 tại Đại học New South Wales, Australia. Lĩnh vực nghiên cứu chính là chính sách đối ngoại, chiến lược an ninh của Hoa Kỳ; quan hệ Hoa Kỳ - ASEAN; và gần đây là chính sách đối ngoại của Ấn Đọ và quan hệ Ấn Độ - ASEAN.

----------------------------------------------------

Cuốn sách này phân tích, đánh giá vị trí của Đông Nam Á trong chính sách an ninh của Mỹ với Đông Nam Á giữa hai chính quyền Bill Clinton và George W.Bush. Ngoài việc xem xét cách tiếp cận về an ninh của Mỹ đối với các thể chế khu vực như ASEAN và ARF, cuốn sách này đặc biệt tập trung vào cách tiếp cận an ninh của Mỹ đối với một số quốc gia thành viên ASEAN như: Philippines, Thái Lan, Singapore, Indonesia và Malaysia cũng như sự tương tác giữa Mỹ và những quốc gia này trên khía cạnh an ninh.

Kể từ khi chấm dứt Chiến tranh Lạnh, mặc dù Đông Nam Á không phải là ưu tiên số một trong chính sách ngoại giao của Mỹ. song khu vực này luôn chiếm vị trí quan trọng trong chiến lực an ninh của Washington. Với mục tiêu thành lập "Cộng đồng Thái Bình Dương mới", Mỹ có lợi ích chiến lwojnc trong việc duy trì một khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định, ngăn không cho bất kỳ nước nào nổi lên thành một đối thủ tiềm tàng của Mỹ trong tương lai. Để thực hiện trụ cột an ninh trong "Học thuyết Clinton", Mỹ đã cung cấp các khoản viện trợ quân sự cũng như tăng cường các hoạt động quân sự với các nước thành viên ASEAN....

văn hóa biển của người việt vùng nam trung bộ việt nam - bìa cứng

văn hóa biển của người việt vùng nam trung bộ việt nam - bìa cứng

Văn Hóa Biển Của Người Việt Vùng Nam Trung Bộ Việt Nam - Bìa Cứng

Việt Nam là đất nước có đường bờ biển dài, một phần không nhỏ văn hóa của nước ta gắn liền với biển. Đặc biệt là vùng biển Nam Trung Bộ với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế và an ninh quốc phòng, là biểu tượng của ý chí quyết tâm gìn giữ, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.

Văn hóa biển của người Việt ở vùng Nam Trung Bộ Việt Nam là một công trình nghiên cứu công phu về văn hóa, đời sống của Nam Trung Bộ - vùng đất, vùng biển trọng yếu của Tổ quốc ta. Nội dung cuốn sách phong phú, khoa học, đề cập nhiều mặt, nhiều khía cạnh về văn hóa biển đảo Việt Nam một cách súc tích, dễ hiểu… Bên cạnh sự vận dụng các phương pháp, lý thuyết khoa học, tác giả còn kết hợp với những tư liệu điều tra thực địa để phân tích, nhận định sâu hơn về văn hóa biển đảo Việt Nam.

Văn hóa biển của người Việt ở vùng Nam Trung Bộ Việt Nam là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, cung cấp một cái nhìn bao quát, giúp nhận diện, tìm kiếm những giá trị vô hình mà không kém phần quan trọng, bảo vệ di sản văn hóa dân tộc trước nguy cơ một số thành tố quý giá đang dần mai một, đồng thời góp tiếng nói bảo vệ chủ quyền biển đảo trong giai đoạn hiện nay.

Về tác giả

Tác giả Nguyễn Thị Hải Lê là một nhà khoa học, đồng thời còn là một nữ quân nhân đã có nhiều thời gian công tác, gắn bó với vùng biển Nam Trung Bộ. Với những hiểu biết của mình cùng với thời gian dài nghiên cứu, khảo sát, chúng tôi tin nội dung cuốn sách sẽ đem lại nhiều kiến thức mới, cũng như sự hứng thú và trải nghiệm cho người đọc về văn hóa và cuộc sống tại một miền đất quan trọng của Tổ quốc.

người hoa ở việt nam thời kỳ nhà nguyễn trước pháp thuộc

người hoa ở việt nam thời kỳ nhà nguyễn trước pháp thuộc

Người Hoa Ở Việt Nam Thời Kỳ Nhà Nguyễn Trước Pháp Thuộc

Cộng đồng người Hoa ở Việt Nam từ lâu đã được coi là một phần của khối đại đoàn kết dân tộc. Tuy nhiều vấn đề vẫn còn cần thêm các tranh biện, nhưng không thể phủ nhận những đóng góp và những ảnh hưởng tích cực của người Hoa lên nền kinh tế – chính trị – xã hội của Việt Nam.

Với nhiều năm nghiên cứu về người Hoa ở Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á, qua công trình “Người Hoa ở Việt Nam – Thời kỳ nhà Nguyễn trước Pháp thuộc”, tác giả PGS.TS. Dương Văn Huy đem đến góc nhìn/luận điểm/kiến giải sâu sắc cho cả giới nghiên cứu lẫn bạn đọc quan tâm về chủ đề này.

Người Hoa di cư đến Việt Nam vừa mang tính chất tự phát nhưng cũng vừa mang tính tổ chức. Cộng đồng này đã xuất hiện tại khá nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là tại khu vực châu Á, đem theo đó là bản sắc tộc người và khả năng thích ứng cũng như tác động tới văn hóa bản địa. Công trình của tác giả Dương Văn Huy đã cung cấp một bức tranh khá toàn diện về sự biến đổi về lượng và chất của cộng đồng dân nhập cư này, nhất là sự gia tăng vai trò của họ trong nền thương mại và sự hội nhập của họ trong xã hội Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX.

Mối quan hệ hai chiều giữa người Hoa với dân tộc Việt, và giữa hệ thống chính trị Việt Nam đương thời, cụ thể là các triều đại Lý – Trần – Lê – Nguyễn đối với người Hoa, cũng đã được luận bàn. Từ đó bạn đọc có thể thấy một bức tranh chuyển động không ngừng của hai luồng văn hóa Việt – Trung cũng như mối quan hệ chính trị – xã hội giữa hai quốc gia nằm ở Đông bán cầu. Để làm được điều đó, PGS.TS. Dương Văn Huy đã dành nhiều công sức khảo cứu một lượng lớn nguồn tài liệu gốc, chính văn của triều Nguyễn, tạo dựng nên những luận điểm, luận giải có độ tin cậy rất cao.

tập viết chữ hán dùng với bộ giáo trình hán ngữ

tập viết chữ hán dùng với bộ giáo trình hán ngữ

Hiện nay, bộ GIÁO TRÌNH HÁN NGỮ gồm 6 cuốn của trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh đang được sử dụng làm giáo trình dạy tiếng Hoa ở rất nhiều trường đại học, trung tâm ngoại ngữ ở nước ta vì đây là bộ giáo trình rất phù hợp. Tuy nhiên để mở rộng và nâng cao trình độ tiếng Hoa, người học còn cần thêm một số tài liệu khác để sử dụng kết hợp với bộ sách này. Vì thế, chúng tôi đã biên dịch và biên soạn một số tài liệu dùng kết hợp với bộ giáo trình này gồm:

- Giáo trình Ngữ Pháp tiếng Hán hiện đại: Đây là cuốn giáo trình được biên soạn rất chuẩn mực và chuyên sâu về ngữ pháp.

- Bài tập Giáo trình Hán ngữ - Tập 1 - Quyển 1&2: Cuốn sách bài tập dùng với 2 cuốn Giáo trình Hán ngữ Tập 1, quyển 1 và 2. Các bài tập mô phỏng các dạng đề của bài thi HSK cấp 1-2 với mục đích luyện thi HSK ở hai cấp này.

- Bài tập Giáo trình Hán ngữ - Tập 2 - Quyển 1&2: Cuốn sách bài tập dùng với 2 cuốn Giáo trình Hán ngữ Tập 2, quyển 1 và 2. Cũng giống như cuốn Bài tập Tập 1, sách dùng để luyện thi HSK cấp 3 và 4.

- Tập viết chữ Hán.

Rất nhiều người mới học tiếng Hoa đều cho rằng chữ Hán là khó khăn lớn nhất đối với họ. Người học bước đầu hoàn toàn phải ghi nhớ máy móc từng chữ một nên cảm thấy chữ Hán sao mà khó viết, khó nhớ và dễ quên đến thế !

Thực ra, chữ Hán có mấy đặc điểm lớn về cấu tạo và hình thể như sau:

- Chữ Hán thường dùng chỉ có 2500 chữ, trong đó gần 20% là chữ đơn thể, trên 80% là chữ hợp thể do hai hoặc trên hai chữ đơn thể hợp thành.

- Chữ đơn thể tạo thành chữ hợp thể cơ bản tuân theo qui luật phối hợp biến đổi nhất định, điểm đáng chú ý nhất là chữ đơn thể làm hình bàng- còn gọi là bộ thủ- nói chung có một vị trí cố định.

- Hình thể chữ Hán tuy muôn hình vẻ, nhưng nhìn chung là sự kết hợp của bảy nét cơ bản và một số nét biến thể theo bảy qui tắc bút thuận mà thành.

Nếu học đúng phương pháp, người học sẽ dần dần nắm được những đặc điểm nói trên. Chữ Hán sẽ không còn là khó khăn quá lớn.

Cuốn sách này chia thành 3 phần chính.

Bài mở đầu giới thiệu những lý thuyết căn bản nhất về chữ Hán và chữ viết.

Phần chính của sách hướng dẫn cách viết các chữ Hán xuất hiện trong cuốn Giáo trình Hán ngữ. Mỗi bài nói chung gồm 2 phần:

Phần 1: Hướng dẫn cách viết của 6-8 bộ thủ mới xuất hiện trong bài.

Phần 2: Hướng dẫn cách viết các chữ Hán mới trong bài.

Phần cuối sách là các chỉ mục và phụ lục, chúng hỗ trợ tra cứu và cung cấp một số thông tin bổ sung cho người học.

Theo chúng tôi, dạy và học chữ Hán như phương pháp chúng tôi trình bày trong sách vừa là sự kế thừa kinh nghiệm của các bậc tiền nhân vừa theo sát các đặc điểm lớn về cấu tạo và hình thể chữ Hán - là cách có thể giúp người học dễ viết, dễ nhớ chữ hơn cả, tạo điều kiện để người học làm quen với việc tra cứu sách công cụ khi học cao lên.

Một tính năng hết sức hữu ích khác khi sử dụng sách này là nó được dùng kèm với một trang web hỗ trợ được in sẵn trên sách. Trên đó, cách viết của các bộ thủ, các chữ viết được minh họa ở dạng video sẽ giúp người học nắm được cách viết chữ dễ dàng và nhanh chóng.

nagara champa - những phác thảo về lịch sử và nền văn minh

nagara champa - những phác thảo về lịch sử và nền văn minh

Nagara Champa - Những Phác Thảo Về Lịch Sử Và Nền Văn Minh

Những nghiên cứu đầu tiên về thể chế chính trị của vương quốc Champa bắt đầu từ các tranh luận về chính thể tập quyền hay liên bang của vương quốc này.

Nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ của người Chăm, nhà Champa học Étienne Aymonier đã có những tiếp cận và đối sánh giữa các nguồn tư liệu như văn bia và thư tịch Chăm. Tiếp đó, trên tập san của Viện Viễn Đông Bác cổ, Emmanuel Durand lại đưa ra những quan điểm ngược lại về biên niên sử Chăm. Durand cho rằng những biên niên sử này là có giá trị về mặt lịch sử, vì nó không ghi nhận gia phả của các vị vua đóng đô ở phía Bắc Champa. Georges Maspero trong một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến lịch sử Champa thông qua các vương triều đóng đô ở phía Bắc, mà không hề nhắc đến sự tồn tại của một triều đình khác ở phía Nam Champa, cũng không hề quan tâm đến việc có hay không một chính thể liên bang hay liên hiệp nhiều tiểu quốc của Champa, mà chỉ xem vương quốc này là một quốc gia thống nhất, theo thể chế tập quyền…

Để tìm hiểu lịch sử Champa, bia ký được xem là một khối dữ liệu quan trọng. Có một thực tế là bia ký Champa rất ít ỏi, nếu như không muốn nói là bị tàn phá gần hết. Hai bia ký quan trọng cho thấy chỉ dấu về những chính thể hay nhà nước sớm ở miền Trung Việt Nam là: bia ký Võ Cạnh (C 40) và Đông Yên Châu (C 174). Trong đó, bia ký Võ Cạnh phần nào cho thấy mối liên kết hay bị ảnh hưởng bởi Phù Nam của vị thủ lĩnh hay dòng tộc dựng lên tấm bia này.

giáo trình hán ngữ - tập 1 - quyển 2

giáo trình hán ngữ - tập 1 - quyển 2

Giáo Trình Hán Ngữ - Tập 1 - Quyển 2

Đối với người học tiếng Hoa, việc lựa chọn một bộ giáo trình tốt là cơ sở bước đầu cho việc học tốt. Một bộ giáo trình tốt không những phải đảm bảo rèn luyện cho người học tiếng Hoa những kỹ năng ngôn ngữ cơ bản, những tri thức văn hóa ngôn ngữ cần thiết, mà còn phải đảm bảo cơ sở cho việc vận dụng những kỹ năng, tri thức ngôn ngữ đó một cách thiết thực nhất. Bộ “Giáo trình Hán ngữ” của trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh (tiền thân là Đại học Ngôn ngữ Văn hóa Bắc Kinh) chính là một bộ giáo trình như thế.

Bộ “Giáo trình Hán ngữ” gồm 3 tập, mỗi tập chia làm hai quyển. Tập 1 – quyển 1 chú trọng giảng dạy ngữ âm, tập 1 – quyển 2 và tập 2 chú trọng giảng dạy ngữ pháp, tập 3 chú trọng nâng cao từ vựng. Mặc dù chia thành 3 giai đoạn riêng, nhưng việc rèn luyện các mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp luôn được kết hợp xuyên suốt toàn bộ giáo trình.

Đây là bộ giáo trình của khoa Hán ngữ đối ngoại trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh, chính vì vậy những tài liệu sử dụng trong giáo trình rất phù hợp với cuộc sống thực tế, cung cấp cho người học những tri thức văn hóa ngôn ngữ thiết thực và bổ ích. Lượng từ vựng phong phú (3.300 từ mới) và cập nhật. Những điểm ngữ pháp được giải thích rõ ràng, dễ hiểu, từ đơn giản đến phức tạp, từng bước nâng cao và đào sâu. Bài luyện ngữ âm xuyên suốt toàn bộ giáo trình. Bài tập đa dạng, được thiết kế một cách khoa học, giúp cho học sinh củng cố và vận dụng những kiến thức đã học. Trong quá trình học tập, bên cạnh việc nắm được những tri thức về mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, nâng cao kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, người học sẽ từng bước được trang bị những cơ sở và phương pháp khoa học để vận dụng những tri thức và kỹ năng đó vào trong thực tế, rèn luyện thành kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ. Đó chính là mục đích của bộ giáo trình này.

Biên dịch bộ giáo trình này, ngoài việc tôn trọng nguyên vẹn nội dung tài liệu gốc, ở mỗi bài, chúng tôi bổ sung thêm vào bài Luyện tập viết chữ cách viết một số bộ thủ cũng như cách viết của các chữ Hán mới xuất hiện ở phần từ mới của bài học. Người học thông qua bài tập này sẽ dễ dàng nắm được cách viết chữ một cách hệ thống. Ngoài ra, chúng tôi còn bổ sung thêm Bài luyện dịch Việt Hoa ở mỗi bài, bài tập này sẽ giúp người học bước đầu luyện tập kỹ năng dịch Việt Hoa của mình. Cuối tài liệu chúng tôi có bổ sung thêm phần Đáp án bài tập để bạn đọc tham khảo

bộ giáo trình hán ngữ - tập 1 - quyển 1

bộ giáo trình hán ngữ - tập 1 - quyển 1

Giáo Trình Hán Ngữ - Tập 1 - Quyển 1

Đối với người học tiếng Hoa, việc lựa chọn một bộ giáo trình tốt là cơ sở bước đầu cho việc học tốt. Một bộ giáo trình tốt không những phải đảm bảo rèn luyện cho người học tiếng Hoa những kỹ năng ngôn ngữ cơ bản, những tri thức văn hóa ngôn ngữ cần thiết, mà còn phải đảm bảo cơ sở cho việc vận dụng những kỹ năng, tri thức ngôn ngữ đó một cách thiết thực nhất. Bộ “Giáo trình Hán ngữ” của trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh (tiền thân là Đại học Ngôn ngữ Văn hóa Bắc Kinh) chính là một bộ giáo trình như thế.

Bộ “Giáo trình Hán ngữ” gồm 3 tập, mỗi tập chia làm hai quyển. Tập 1 – quyển 1 chú trọng giảng dạy ngữ âm, tập 1 – quyển 2 và tập 2 chú trọng giảng dạy ngữ pháp, tập 3 chú trọng nâng cao từ vựng. Mặc dù chia thành 3 giai đoạn riêng, nhưng việc rèn luyện các mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp luôn được kết hợp xuyên suốt toàn bộ giáo trình.

Đây là bộ giáo trình của khoa Hán ngữ đối ngoại trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh, chính vì vậy những tài liệu sử dụng trong giáo trình rất phù hợp với cuộc sống thực tế, cung cấp cho người học những tri thức văn hóa ngôn ngữ thiết thực và bổ ích. Lượng từ vựng phong phú (3.300 từ mới) và cập nhật. Những điểm ngữ pháp được giải thích rõ ràng, dễ hiểu, từ đơn giản đến phức tạp, từng bước nâng cao và đào sâu. Bài luyện ngữ âm xuyên suốt toàn bộ giáo trình. Bài tập đa dạng, được thiết kế một cách khoa học, giúp cho học sinh củng cố và vận dụng những kiến thức đã học. Trong quá trình học tập, bên cạnh việc nắm được những tri thức về mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, nâng cao kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, người học sẽ từng bước được trang bị những cơ sở và phương pháp khoa học để vận dụng những tri thức và kỹ năng đó vào trong thực tế, rèn luyện thành kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ. Đó chính là mục đích của bộ giáo trình này.

Biên dịch bộ giáo trình này, ngoài việc tôn trọng nguyên vẹn nội dung tài liệu gốc, ở mỗi bài, chúng tôi bổ sung thêm vào bài Luyện tập viết chữ cách viết một số bộ thủ cũng như cách viết của các chữ Hán mới xuất hiện ở phần từ mới của bài học. Người học thông qua bài tập này sẽ dễ dàng nắm được cách viết chữ một cách hệ thống. Ngoài ra, chúng tôi còn bổ sung thêm Bài luyện dịch Việt Hoa ở mỗi bài, bài tập này sẽ giúp người học bước đầu luyện tập kỹ năng dịch Việt Hoa của mình. Cuối tài liệu chúng tôi có bổ sung thêm phần Đáp án bài tập để bạn đọc tham khảo

tuyển tập bản đồ và địa danh kinh thành huế - bìa cứng

tuyển tập bản đồ và địa danh kinh thành huế - bìa cứng

Tuyển Tập Bản Đồ Và Địa Danh Kinh Thành Huế - Bìa Cứng

Ấn phẩm cuối cùng thuộc bộ sách HUẾ KỲ BÍ

Khác với hai ấn phẩm trước là “Huế điều kỳ bí” và “Lăng Gia Long”, ấn phẩm “Tuyển tập đồ bản và địa danh Kinh thành Huế” lại cung cấp tới bạn đọc một lượng thông tin vô cùng lớn về Kinh thành Huế qua hệ thống đồ bản khổng lồ do hai tác giả Henri Cosserat và Léopold Michel Cadière sưu tầm.

Thực vậy, cho tận đến năm 1884 khi người Pháp đã làm chủ cả Trung Kỳ thì đối với họ, Kinh thành Huế vẫn là một điều cực kỳ bí ẩn. Từ những bí mật về kiến trúc, cung đình và pháo đài Huế cho đến những bí mật về quân sự diễn ra trong Kinh thành, người Pháp đã mất hơn 80 năm nhưng vẫn không có nhiều tài liệu. Đối với một chế độ thực dân như Pháp, việc thiếu đi những điều tra quan trọng như vậy sẽ ít nhiều ảnh hưởng tới chế độ quân sự và ngoại giao… Và cho đến khi Henri Cosserat và Léopold Michel Cadière bắt đầu công việc của mình, tác phẩm này của hai ông đã được tập san “Đô thành hiếu cổ” ở Huế đăng tải trong nhiều số, từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1933.

Trong “Tuyển tập đồ bản và địa danh Kinh thành Huế”, hai tác giả không chỉ trình bày cho chúng ta mỗi hình ảnh của các đồ bản, mà còn có phân tích kèm theo. 28 đồ bản (hoặc bình đồ) được xếp theo thứ tự thời gian xuất hiện và được giới thiệu đầy đủ từ xuất xứ (thời gian, nguồn tư liệu, nơi công bố lần đầu…) cũng như ý nghĩa, công dụng cần thiết của chúng.

Ở phần cuối sách – “Địa danh Kinh thành Huế”, tác giả L. Cadière như đã bổ khuyết một bản phụ lục rất tuyệt vời cho “bộ sưu tập” của H. Cosserat. Nhiều nhân vật, địa điểm, sự kiện… trong các đồ bản mà H. Cosserat giới thiệu đã được L. Cadière định vị và lý giải, hơn nữa là bổ chú chi tiết và cặn kẽ – một điều giúp ích không ít cho những nhà Huế học hay những bạn đọc yêu mến xứ Huế như chúng ta ngày nay.

bộ lịch triều tạp kỷ - tập 1

bộ lịch triều tạp kỷ - tập 1

Lịch sử trung đại Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII là mảng đề tài không mới, đã được giới sử học tìm tòi, nghiên cứu trong nhiều thập kỷ. Trong điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam, vấn đề này, cho đến nay, vẫn còn nguyên tính thời sự. Việc nhìn nhận lại từng sự kiện trong bối cảnh Nam - Bắc phân tranh, vua Lê - chúa Trịnh cùng nhau nắm quyền ở Đàng Ngoài, cũng như về nguồn tư liệu, các công trình nghiên cứu, các nhận thức khoa học về vấn đề quen thuộc nhưng phức tạp này, xét thấy là rất cần thiết.

Trên tinh thần đó, Nhà xuất bản Khoa học xã hội phối hợp với MaiHaBooks và Viện Sử học tái bản bộ sách Lịch triều tạp kỷ do Ngô Cao Lãng cùng Xiển Trai biên soạn và bổ sung. Đến tận ngày hôm nay, bộ sách vẫn giữ vẹn nguyên giá trị của một bộ tư sử được ghi chép cẩn thận, nghiêm túc và công phu, tiếp nối cho kho Việt sử tục biên nằm trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Không chỉ có những giá trị sâu sắc về mặt lịch sử, Lịch triều tạp kỷ còn là một nguồn tư liệu quý giá về khía cạnh văn học, bổ sung thêm những hiểu biết về văn học trung đại Việt Nam thông qua những mô tả chi tiết về nghệ thuật xướng họa thơ ca cung đình đặc sắc cùng sự chuộng Nôm, sành Nôm của các chúa Trịnh để đề cao vai trò của chữ Nôm trong xã hội đương thời.

Có điểm lưu ý là, công trình đã được tiến hành biên dịch từ những năm 70 của thế kỷ XX trở về trước, nên nhiều địa danh và địa bàn nghiên cứu được đề cập đến nay sau nhiều lần thay đổi địa giới hành chính đã đổi khác. Việc khảo sát để xác minh các địa danh này là việc làm rất phức tạp mà chúng tôi chưa thực hiện được…. Do vậy, chúng tôi xin được giữ nguyên những địa danh của lần xuất bản trước. Một điều đặc biệt trong lần tái bản này, đó là, cùng với bản dịch tác phẩm, chúng tôi in kèm theo nguyên bản chữ Hán. Đây là sự khác biệt so với các lần xuất bản trước đây.

Quá trình xuất bản bộ sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự cảm thông, chia sẻ và ý kiến đóng góp của độc giả để hoàn thiện cuốn sách trong những lần xuất bản sau.

bộ lịch triều tạp kỷ - tập 2

bộ lịch triều tạp kỷ - tập 2

Lịch sử trung đại Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII là mảng đề tài không mới, đã được giới sử học tìm tòi, nghiên cứu trong nhiều thập kỷ. Trong điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam, vấn đề này, cho đến nay, vẫn còn nguyên tính thời sự. Việc nhìn nhận lại từng sự kiện trong bối cảnh Nam - Bắc phân tranh, vua Lê - chúa Trịnh cùng nhau nắm quyền ở Đàng Ngoài, cũng như về nguồn tư liệu, các công trình nghiên cứu, các nhận thức khoa học về vấn đề quen thuộc nhưng phức tạp này, xét thấy là rất cần thiết.

Trên tinh thần đó, Nhà xuất bản Khoa học xã hội phối hợp với MaiHaBooks và Viện Sử học tái bản bộ sách Lịch triều tạp kỷ do Ngô Cao Lãng cùng Xiển Trai biên soạn và bổ sung. Đến tận ngày hôm nay, bộ sách vẫn giữ vẹn nguyên giá trị của một bộ tư sử được ghi chép cẩn thận, nghiêm túc và công phu, tiếp nối cho kho Việt sử tục biên nằm trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Không chỉ có những giá trị sâu sắc về mặt lịch sử, Lịch triều tạp kỷ còn là một nguồn tư liệu quý giá về khía cạnh văn học, bổ sung thêm những hiểu biết về văn học trung đại Việt Nam thông qua những mô tả chi tiết về nghệ thuật xướng họa thơ ca cung đình đặc sắc cùng sự chuộng Nôm, sành Nôm của các chúa Trịnh để đề cao vai trò của chữ Nôm trong xã hội đương thời.

Có điểm lưu ý là, công trình đã được tiến hành biên dịch từ những năm 70 của thế kỷ XX trở về trước, nên nhiều địa danh và địa bàn nghiên cứu được đề cập đến nay sau nhiều lần thay đổi địa giới hành chính đã đổi khác. Việc khảo sát để xác minh các địa danh này là việc làm rất phức tạp mà chúng tôi chưa thực hiện được…. Do vậy, chúng tôi xin được giữ nguyên những địa danh của lần xuất bản trước. Một điều đặc biệt trong lần tái bản này, đó là, cùng với bản dịch tác phẩm, chúng tôi in kèm theo nguyên bản chữ Hán. Đây là sự khác biệt so với các lần xuất bản trước đây.

Quá trình xuất bản bộ sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự cảm thông, chia sẻ và ý kiến đóng góp của độc giả để hoàn thiện cuốn sách trong những lần xuất bản sau.

lê quý dật sử

lê quý dật sử

Sách "Lê quý dật sử" trình bày các sự kiện lịch sử theo thể biên niên từ năm Mậu Dần Cảnh Hưng thứ 19 (1758) đến năm Quý Sửu Cảnh Thịnh 1 (1793).

Sách không đề tên tác giả biên soạn, nhưng các công trình biên soạn và nghiên cứu như: "Lược truyện các tác giả Việt Nam", "Tìm hiểu thiên tài quân sự Nguyễn Huệ", "Đại Việt sử ký toàn thư" phần bản kỷ tục biên đã ghi nhận tác giả của "Lê quý dật sử" là Bùi Dương Lịch.

Tiêu đề của cuốn sách "Lê quý dật sử" nghĩa là “những sự kiện lịch sử còn sót lại thời cuối Lê”. Đó là nguyện vọng của tác giả và cũng chính là nét tiêu biểu của tác phẩm.

Các sự kiện lịch sử được ghi chép trong Lê quý dật sử khá chi tiết và phong phú, có thể chia làm ba loại chính:

Loại ghi tóm tắt những sự kiện lớn mà chính sử đã ghi để tiện theo dõi.

Loại ghi chi tiết thêm. Ví dụ về thi cử, các sách sử đều ghi về khoa cử, nhưng qua Lê quý dật sử, ta biết thêm về những tệ nạn phiền toái trong thi cử…

Loại bổ sung thêm: Loại này khá phong phú. Ví dụ tác giả ghi lại nhiều văn thơ bằng chữ Nôm, điều này thể hiện chữ Nôm thời đấy đã được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động của đời sống xã hội…

Tái bản từ bản dịch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm in năm 1987, trong lần xuất bản này, MaiHaBooks đã bổ sung nội dung nguyên bản chữ Hán sách "Lê quý dật sử" hiện đang được lưu trữ tại thư viện Viện Sử học. Hy vọng cuốn sách sẽ mang tới cho bạn đọc yêu thích lịch sử, cũng như những nhà nghiên cứu Sử học nguồn tư liệu quý giá trong quá trình tìm hiểu và biên dịch các tác phẩm lịch sử thời kỳ này.

lịch sử văn hóa biển việt nam

lịch sử văn hóa biển việt nam

Lịch Sử Văn Hóa Biển Việt Nam

Một công trình nghiên cứu sâu rộng về biển và văn hóa biển Việt Nam

Việt Nam là quốc gia ven biển, có các vùng biển và thềm lục địa rộng lớn, chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Trong tiến trình lịch sử của đất nước, biển đảo đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập không gian sinh tồn, hình thành nền văn hóa, thiết lập quan hệ giao thương với lân bang và xác lập chủ quyền và an ninh biển quốc gia. Chính vì thế, từ hàng trăm năm nay, văn hóa biển Việt Nam đã trở thành mối quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, thuộc các ngành khoa học khác nhau, trong đó có có ngành khoa học xã hội và nhân văn.

Trước những bối cảnh như trên, để không chỉ là biết và hiểu về biển, đảo, biết cách ứng xử linh hoạt độc đáo để tồn tại và phát triển với biển, đảo; để khẳng định truyền thống văn hóa lâu đời của chủ thể văn hóa biển, đảo Việt Nam; để tìm cách giữ gìn những “trầm tích văn hóa” đã được tích tụ từ ngàn xưa, và quan trọng hơn cả, để khẳng định chủ quyền thiêng liêng của đất nước, chúng ta cần những nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử văn hóa biển Việt Nam. Lịch sử văn hóa biển Việt Nam là một công trình nghiên cứu xứng đáng để góp phần vào một nỗ lực như thế.

Với cuốn sách này, GS.TS. Nguyễn Chí Bền đã dành nhiều tâm huyết để xây dựng một bức tranh toàn cảnh về văn hóa biển Việt Nam, tập trung đi sâu vào quá trình hình thành và phát triển của văn hóa biển Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Nhưng cuốn sách không chỉ đơn thuần là một công trình nghiên cứu trên khía cạnh lịch sử, GS.TS. Nguyễn Chí Bền đã tỉ mỉ nghiên cứu, phân tích và tổng hợp một lượng lớn tư liệu dân tộc học, khảo cổ học, địa lý và các ngành khoa học xã hội nhân văn khác. Qua đó, tác giả đã tái hiện một cách sinh động và chân thực bức tranh đa dạng và phong phú về đời sống văn hóa, tín ngưỡng, tập quán của người Việt gắn liền với biển cả.

Cuốn sách bao gồm các nội dung chính cụ thể như sau:

Chương 1: Tổng kết các nghiên cứu về văn hóa biển Việt Nam ở cả trong và ngoài nước, từ đó xác định những khoảng trống và hướng nghiên cứu mới.

Chương 2: Khẳng định Việt Nam mang vị thế một quốc gia biển cả về tự nhiên và xã hội, đồng thời đưa ra những quan niệm về văn hóa biển.

Chương 3: Phân tích các chủ thể tham gia vào việc tạo dựng và phát triển văn hóa biển, như cộng đồng ngư dân, cộng đồng lãnh đạo, các nhà văn hóa biển.

Chương 4: Phân loại và phân tích các loại hình văn hóa biển, từ văn hóa khai thác biển đến văn hóa thích ứng biển cả, văn hóa bảo vệ chủ quyền.

Chương 5: Khái quát sự biến đổi của văn hóa biển Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử, từ thời tiền sử đến hiện đại.

Chương 6: So sánh và phân tích sự khác biệt của văn hóa biển giữa các vùng miền.

Chương 7: Bàn về một vấn đề quan trọng, đó là: bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa biển, tác giả đã đánh giá về thực trạng văn hóa biển hiện nay và đề xuất các giải pháp bảo vệ và phát triển văn hóa biển, nhằm góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Với lối viết khoa học, chặt chẽ nhưng vẫn đảm bảo tính hấp dẫn, tác giả đã xây dựng một hệ thống lý luận vững chắc và sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để phân tích và đánh giá các vấn đề liên quan đến văn hóa biển. Lịch sử văn hóa biển Việt Nam không chỉ có giá trị khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn lớn, góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa biển, phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Lịch sử văn hóa biển Việt Nam không chỉ là một tài liệu tham khảo quý giá cho các nhà nghiên cứu, giảng viên, sinh viên mà còn là một món quà tinh thần ý nghĩa dành cho những ai yêu thích và quan tâm đến lịch sử và văn hóa dân tộc.

Vài nét về tác giả:

GS.TS. Nguyễn Chí Bền

Ông là một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu về lịch sử văn hóa Việt Nam. Với hơn 40 năm kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự phát triển của ngành văn hóa học. Ông từng giữ nhiều vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục và nghiên cứu khoa học, và được biết đến với những công trình nghiên cứu sâu sắc về văn hóa truyền thống Việt Nam.

Một số công trình tiêu biểu: Tìm hiểu một số hiện tượng văn hóa dân gian Bến Tre, (Nxb. Khoa học xã hội, 1997/2017), Lễ hội cổ truyền của người Việt, cấu trúc và thành tố (Nxb. Khoa học xã hội, 2013/2015) Văn hóa Việt Nam, nghiên cứu và tiếp cận, Tập 1, Quyển 1, 2, 3 (Nxb. Khoa học xã hội, 2018), A study on Vietnam’s folklore (Thế giới Publishing house, 2007)…

giáo trình hán ngữ - tập 2 - quyển 2 (tái bản 2024)

giáo trình hán ngữ - tập 2 - quyển 2 (tái bản 2024)

Giáo Trình Hán Ngữ - Tập 2 - Quyển 2

Đối với người học tiếng Hoa, việc lựa chọn một bộ giáo trình tốt là cơ sở bước đầu cho việc học tốt. Một bộ giáo trình tốt không những phải đảm bảo rèn luyện cho người học tiếng Hoa những kỹ năng ngôn ngữ cơ bản, những tri thức văn hóa ngôn ngữ cần thiết, mà còn phải đảm bảo cơ sở cho việc vận dụng những kỹ năng, tri thức ngôn ngữ đó một cách thiết thực nhất. Bộ “Giáo trình Hán ngữ” của trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh (tiền thân là Đại học Ngôn ngữ Văn hóa Bắc Kinh) chính là một bộ giáo trình như thế.

Bộ “Giáo trình Hán ngữ” gồm 3 tập, mỗi tập chia làm hai quyển. Tập 1 – quyển 1 chú trọng giảng dạy ngữ âm, tập 1 – quyển 2 và tập 2 chú trọng giảng dạy ngữ pháp, tập 3 chú trọng nâng cao từ vựng. Mặc dù chia thành 3 giai đoạn riêng, nhưng việc rèn luyện các mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp luôn được kết hợp xuyên suốt toàn bộ giáo trình.

Đây là bộ giáo trình của khoa Hán ngữ đối ngoại trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh, chính vì vậy những tài liệu sử dụng trong giáo trình rất phù hợp với cuộc sống thực tế, cung cấp cho người học những tri thức văn hóa ngôn ngữ thiết thực và bổ ích. Lượng từ vựng phong phú (3.300 từ mới) và cập nhật. Những điểm ngữ pháp được giải thích rõ ràng, dễ hiểu, từ đơn giản đến phức tạp, từng bước nâng cao và đào sâu. Bài luyện ngữ âm xuyên suốt toàn bộ giáo trình. Bài tập đa dạng, được thiết kế một cách khoa học, giúp cho học sinh củng cố và vận dụng những kiến thức đã học. Trong quá trình học tập, bên cạnh việc nắm được những tri thức về mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, nâng cao kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, người học sẽ từng bước được trang bị những cơ sở và phương pháp khoa học để vận dụng những tri thức và kỹ năng đó vào trong thực tế, rèn luyện thành kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ. Đó chính là mục đích của bộ giáo trình này.

Biên dịch bộ giáo trình này, ngoài việc tôn trọng nguyên vẹn nội dung tài liệu gốc, ở mỗi bài, chúng tôi bổ sung thêm vào bài Luyện tập viết chữ cách viết một số bộ thủ cũng như cách viết của các chữ Hán mới xuất hiện ở phần từ mới của bài học. Người học thông qua bài tập này sẽ dễ dàng nắm được cách viết chữ một cách hệ thống. Ngoài ra, chúng tôi còn bổ sung thêm Bài luyện dịch Việt Hoa ở mỗi bài, bài tập này sẽ giúp người học bước đầu luyện tập kỹ năng dịch Việt Hoa của mình. Cuối tài liệu chúng tôi có bổ sung thêm phần Đáp án bài tập để bạn đọc tham khảo.

việt nam - lịch sử không biên giới

việt nam - lịch sử không biên giới

Việt Nam - Lịch Sử Không Biên Giới

NỘI DUNG CHÍNH

“Việt Nam: Lịch sử không biên giới” như một cuộc đối thoại quốc tế về Việt Nam giữa những nhà sử học ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Hoa Kỳ. Cuốn sách quy tụ các bài tham luận của các nhà Việt Nam học lừng danh trên thế giới tại hội thảo “Việt Nam: bên ngoài những đường biên” tháng 5/2001, mở ra những tri thức sâu và mới mẻ về sự tương tác giữa bản sắc Việt Nam - Chăm - Khmer - Pháp,... trên bán đảo Đông Dương trong hơn 1000 năm.

Hiếm có nền sử học nào lại mang dấu ấn dân tộc đậm nét như sử học về Việt Nam trong thế kỷ XX. Gia nhập trận chiến cam go vì sinh tồn và bản sắc dân tộc suốt phần lớn thế kỷ này, các nhà sử học Việt Nam và những ai có thiện cảm với họ trên thế giới đã dồn sức tập trung vào dòng trần thuật vĩ mô về cuộc đấu tranh dân tộc chống lại Trung Hoa, Pháp và Mỹ. Chỉ tới gần đây, một thế hệ mới các nhà sử học mới có thể bắt đầu khám phá những phức hợp văn hóa và chính trị trong mối quan hệ giữa nhiều dân tộc sống trên bán đảo Đông Dương, mà không phải cân nhắc đến hệ quả từ những gì mình viết đối với cuộc đấu tranh dân tộc. Cuốn sách “Việt Nam: Lịch sử không biên giới” là một bước tiến nữa của thế hệ đó.

Việc cuốn sách này vượt qua các ranh giới còn có một ý nghĩa nữa. Một thế hệ trước đây, giới sử học phương Tây viết về Việt Nam với tư thế hoàn toàn tách rời khỏi sử học Việt Nam, cho dù là có thiện cảm với nó, cũng như xa lánh sử học thực dân Pháp. Những gì công bố ở Trung Quốc và Nhật Bản gần như không được các học giả phương Tây biết đến. Cuốn sách này tiêu biểu cho cuộc đối thoại đang tiếp diễn giữa các nhà sử học được đào tạo, hoặc được đào tạo một phần ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc cũng như Hoa Kỳ.

Nổi bật trong đối thoại này là Giáo sư Phan Huy Lê, một bậc lão thành trong giới sử học Việt Nam và hậu duệ của một gia tộc trí thức nổi tiếng, với sự nghiệp trải suốt tiến trình của nền sử học thời Việt Nam độc lập. Một đại diện khác của thế hệ đi trước là học giả đầu ngành về nghiên cứu Việt Nam, Yu Insun người Hàn Quốc, được đào tạo về lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á ở Nhật Bản, Hoa Kỳ và đã mang đến một quan điểm độc đáo về các nguồn sử liệu.

Không cần sắp đặt cầu kỳ, hợp tuyển này cho thấy nghiên cứu lịch sử Việt Nam sớm muộn gì cũng nhất thiết phải trở thành một cuộc đối thoại quốc tế.

Bố cục sách gồm các phần:

Trong chương 1 - VIỆT NAM: GS Phan Huy Lê đưa ra một tóm lược các nghiên cứu về sở hữu đất đai tại làng, nhấn mạnh vai trò của làng trong cách mạng và bản sắc Việt Nam.

Trong chương 2 - KIẾN TẠO VIỆT ĐỐI LẬP HÁN: Nhóm bài viết này thách thức các trần thuật truyền thống về bản sắc và quyền lực Việt Nam so với Trung Hoa, thông qua các nghiên cứu của Insun Yu, Sun Laichen, và Trần Tuyết Nhung.

Trong chương 3 - SỰ ĐA DẠNG CỦA VÙNG ĐẤT PHƯƠNG NAM: Nhóm bài viết thứ hai xem xét lịch sử của Đàng Trong và sự tương tác với người Chăm, Khmer, và Thượng. Các tác giả như Li Tana, Charles Wheeler, và Wynn Wilcox tranh luận về vai trò của các vùng biên giới và sự đa nguyên trong lịch sử của khu vực này.

Trong chương 4 - NHỮNG CUỘC CHẠM TRÁN VIỆT-ÂU: Phần cuối cùng của cuốn sách với các nghiên cứu về Philiphê Bỉnh, sự tham gia của người Việt trong Thế chiến thứ nhất, và nhân vật Pigneau de Béhaine. Nhóm bài viết này gợi ra vài nét phức hợp nơi những cuộc chạm trán và phát hiện ra nhau giữa người Việt và người Âu. Những tự sự cá nhân có thể tôn màu cho trần thuật quốc gia nhưng cũng có thể lật đổ chúng. Những lịch sử của vùng đất bị tàn phá nhưng vẫn phong phú đáng ngạc nhiên này của thế giới không thể bị giới hạn bởi những mục tiêu của hiện tại.

“Việt Nam: Lịch sử không biên giới” phù hợp với độc giả phổ thông; độc giả yêu thích, tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử Việt Nam.

TRÍCH ĐOẠN/ CÂU QUOTE HAY

Làng không chỉ có vai trò lớn trong diễn trình phát triển lịch sử mà còn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình chuyển đổi kinh tế. Mặc cho sự dịch chuyển đều đặn sang công nghiệp hóa, nông nghiệp vẫn chiếm giữ hơn một phần tư sản lượng kinh tế của Việt Nam. Với tư cách là những địa bàn tụ cư lớn - nơi nông dân sinh sống và sản xuất - làng đóng vai trò quan trọng trên các phương diện xã hội và văn hóa: là nơi bắt đầu của các hoạt động nông nghiệp thiết yếu như khai hoang, đắp đê, làm thủy lợi, phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp, bảo tồn và phát triển văn hóa dân gian, cũng như trong đấu tranh chống ngoại xâm giữ làng giữ nước.

(trích Chương 1: Nghiên cứu làng Việt: thực trạng và triển vọng)

“Bài nghiên cứu này sẽ giới thiệu về cuộc đời đầy sự kiện của Philiphê Bỉnh và nhiều bút tích của ông, cả hai đều được xem xét trong bối cảnh lịch sử của chúng… Cuối cùng, bài nghiên cứu cho rằng những bút tích còn lại của Bỉnh và tầm quan trọng của chúng là một nguồn tư liệu để mở ra cánh cửa về cuộc đời của ông và những nhận thức đầu tiên của người Việt Nam đối với châu Âu. Điểm cuối rất quan trọng vì qua bút tích của ông, chúng ta thấy được những kết nối đầu tiên giữa châu Âu và Việt Nam, và suy nghĩ của những lữ khách đầu tiên người Việt hình dung về ‘phương Tây’.”

(trích Chương 8: Vượt đại dương, vượt đường biên: cuộc đời đầy dấu ấn của Philiphê Bỉnh (1759-1832)

giáo trình hán ngữ - tập 2 - quyển 1

giáo trình hán ngữ - tập 2 - quyển 1

Giáo Trình Hán Ngữ - Tập 2 - Quyển 1

Đối với người học tiếng Hoa, việc lựa chọn một bộ giáo trình tốt là cơ sở bước đầu cho việc học tốt. Một bộ giáo trình tốt không những phải đảm bảo rèn luyện cho người học tiếng Hoa những kỹ năng ngôn ngữ cơ bản, những tri thức văn hóa ngôn ngữ cần thiết, mà còn phải đảm bảo cơ sở cho việc vận dụng những kỹ năng, tri thức ngôn ngữ đó một cách thiết thực nhất. Bộ “Giáo trình Hán ngữ” của trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh (tiền thân là Đại học Ngôn ngữ Văn hóa Bắc Kinh) chính là một bộ giáo trình như thế.

Bộ “Giáo trình Hán ngữ” gồm 3 tập, mỗi tập chia làm hai quyển. Mặc dù chia thành 3 giai đoạn riêng, nhưng việc rèn luyện các mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp luôn được kết hợp xuyên suốt toàn bộ giáo trình.

Đây là bộ giáo trình của khoa Hán ngữ đối ngoại trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh, chính vì vậy những tài liệu sử dụng trong giáo trình rất phù hợp với cuộc sống thực tế, cung cấp cho người học những tri thức văn hóa ngôn ngữ thiết thực và bổ ích. Lượng từ vựng phong phú (3.300 từ mới) và cập nhật. Những điểm ngữ pháp được giải thích rõ ràng, dễ hiểu, từ đơn giản đến phức tạp, từng bước nâng cao và đào sâu. Bài luyện ngữ âm xuyên suốt toàn bộ giáo trình. Bài tập đa dạng, được thiết kế một cách khoa học, giúp cho học sinh củng cố và vận dụng những kiến thức đã học. Trong quá trình học tập, bên cạnh việc nắm được những tri thức về mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, nâng cao kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, người học sẽ từng bước được trang bị những cơ sở và phương pháp khoa học để vận dụng những tri thức và kỹ năng đó vào trong thực tế, rèn luyện thành kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ. Đó chính là mục đích của bộ giáo trình này.

Biên dịch bộ giáo trình này, ngoài việc tôn trọng nguyên vẹn nội dung tài liệu gốc, ở mỗi bài, chúng tôi bổ sung thêm vào bài Luyện tập viết chữ cách viết một số bộ thủ cũng như cách viết của các chữ Hán mới xuất hiện ở phần từ mới của bài học. Người học thông qua bài tập này sẽ dễ dàng nắm được cách viết chữ một cách hệ thống. Ngoài ra, chúng tôi còn bổ sung thêm Bài luyện dịch Việt Hoa ở mỗi bài, bài tập này sẽ giúp người học bước đầu luyện tập kỹ năng dịch Việt Hoa của mình. Cuối tài liệu chúng tôi có bổ sung thêm phần Đáp án bài tập để bạn đọc tham khảo.

lĩnh nam chích quái - khảo luận - dịch chú - nguyên bản chữ hán - bìa cứng

lĩnh nam chích quái - khảo luận - dịch chú - nguyên bản chữ hán - bìa cứng

Lĩnh Nam Chích Quái - Khảo Luận - Dịch Chú – Nguyên Bản Chữ Hán

Lĩnh Nam chích quái là tác phẩm ghi chép truyện cổ Việt Nam được viết bằng chữ Hán, Nôm ra đời vào thời Lý-Trần. Sách gồm 2 quyển, 22 truyện. Không rõ tác giả, tương truyền là Trần Thế Pháp. Cũng như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái được coi là một trong tác phẩm văn xuôi tự sự cổ nhất của Việt Nam còn lưu lại cho tới ngày nay. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm không chỉ chiếm được tình cảm của các tác gia thời trung đại thể hiện qua hàng chục văn bản mang tên Lĩnh Nam chích quái hiện còn, mà còn hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu văn học trung đại ngày nay qua rất nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về Lĩnh Nam chích quái.

Chuyên luận Lĩnh Nam chích quái (Khảo luận - Dịch chú – Nguyên bản chữ Hán) được hoàn chỉnh và bổ sung trên cơ sở Luận án Tiến sĩ Ngữ văn với nhan đề: Nghiên cứu văn bản Lĩnh Nam chích quái do Nguyễn Thị Oanh thực hiện, GS.TS. Nguyễn Ngọc San và cố PGS. Đặng Đức Siêu hướng dẫn, được Hội đồng Quốc gia chấm luận án Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thông qua vào ngày 22 tháng 10 năm 2005.

Chuyên luận Lĩnh Nam chích quái tập trung nghiên cứu các bản Lĩnh Nam chích quái hiện đang được lưu trữ tại các Thư viện ở Hà Nội. Với quan điểm coi tất cả các bản Lĩnh Nam chích quái còn lại là đối tượng cần được khảo cứu và xem xét kỹ lưỡng, đặc biệt mối quan hệ ""bà con"" giữa chúng, công trình đã tập trung so sánh, đối chiếu và phân loại Lĩnh Nam chích quái thành các nhóm bản; đi sâu tìm hiểu kỹ nhóm bản Lĩnh Nam chích quái được các nhà nghiên cứu đi trước coi là cổ, xác định bản cổ và phác họa quá trình truyền bản của Lĩnh Nam chích quái. Đi sâu lý giải một số đặc điểm ngôn ngữ Hán văn và đặc điểm nội dung trong tác phẩm, so sánh với một số tác phẩm Hán văn thời Lý-Trần.

Về bố cục, chuyên luận gồm 3 phần:

- Phần I: Nghiên cứu văn bản Lĩnh Nam chích quái;

- Phần II: Phụ lục;

- Phần III: Nguyên bản chữ Hán.

Ở Phần I, ngoài Lời dẫn và phần Mở đầu, Kết luận, chuyên luận chia làm 5 chương:

- Chương 1: Văn bản học Hán Nôm và văn bản Lĩnh Nam chích quái - Một vài nhận định;

- Chương 2: Phân loại và phác họa quá trình truyền bản của Lĩnh Nam chích quái;

- Chương 3: Một số đặc điểm ngôn ngữ của tác phẩm.

- Chương 4: Địa danh trong Lĩnh Nam chích quái A.2914;

- Chương 5: Một số đặc điểm về nội dung của tác phẩm.

Phần Phụ lục II gồm Dịch nghĩa - Khảo dị - Chú thích bản Lĩnh Nam chích quái liệt truyện A.2914. Tiếp đó là bảng thống kê Địa danh, Nhân danh.

Phần Phụ lục III gồm nguyên bản chữ Hán LNCQ A.2914 hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Trong cuốn sách này “tác giả đã lược bỏ một số thao tác trường ốc của một luận án để tập trung vào những thao tác học thuật cần có đối với một công trình khảo cứu dịch thuật trong đó có sự khảo sát tất cả văn bản Lĩnh Nam chích quái hiện có, tìm hiểu tình hình nghiên cứu Lĩnh Nam chích quái, củng cố hệ thống thao tác văn bản học cần có để tiến tới lựa chọn hiệu đính xác định một văn bản tương đối chuẩn và tiếp theo là công việc dịch thuật, chú giải. Trong công trình này có sự mở rộng kiến thức về mối quan hệ giữa Lĩnh Nam chích quái với các thư tịch Hán Nôm liên quan đến văn học dân gian có các truyền thuyết và ít nhiều có sự liên hệ so sánh Lĩnh Nam chích quái của Việt Nam với Nhật Bản linh dị ký của Nhật Bản để giúp độc giả thoáng thấy bóng dáng của tính chất đồng văn của văn hoá Việt-Nhật trong văn hoá Đông Á”.

- Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đình Chú, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

“Dịch giả Nguyễn Thị Oanh là người đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về chữ Hán - Văn hóa chữ Hán của Đông Á. Đặc biệt, chị là người tiên phong đi vào nghiên cứu Văn học thuyết thoại của Nhật Bản - trọng tâm là nghiên cứu so sánh thuyết thoại chữ Hán của Việt Nam với thuyết thoại các nước Đông Á. Trước đây, chị đã dịch và xuất bản cuốn Nhật Bản linh dị ký 日本霊異記là tập thuyết thoại Phật giáo thời cổ đại của Nhật Bản, được biên soạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 8 và cũng đã dịch và xuất bản nửa trước [Quyển Thượng] và gần đây là nửa sau [Tập Hạ] của phần Bản triều cuốn Kim tích vật ngữ tập 今昔物語集 (Tập truyện kể xưa nay) được coi là đỉnh cao của văn học thuyết thoại Nhật Bản.

Cùng với kết quả như vậy, chị Oanh đã tập trung hết sức cho việc nghiên cứu với nhiều chủ đề liên quan đến thuyết thoại. Chị cũng đã tham gia diễn giảng và phát biểu ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và một số nước khác. Các bài viết lần lượt được công bố và là thành phần không thể thiếu trong nghiên cứu Đông Á. Không chỉ có vậy, chị còn nghiên cứu các tác phẩm cổ điển của Việt Nam và mong muốn đi sâu nghiên cứu văn bản, dịch và chú thích các tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ Nôm của Việt Nam. Cách tiếp cận nghiên cứu sâu sắc của chị rất đáng được ngưỡng mộ.

Cuốn sách lần này của chị Oanh đã giải tỏa cơn khát về nghiên cứu Lĩnh Nam chích quái. Chị đã phát huy tất cả các thành quả nghiên cứu từ việc thu thập đầy đủ dị bản cho đến việc so sánh đối chiếu kỹ lưỡng bản gốc với các dị bản. Hy vọng tác phẩm này sẽ có ảnh hưởng lớn đến việc nghiên cứu thuyết thoại Hán văn Đông Á từ nay về sau.”

- GS. TS. Komine Kazuaki, Giáo sư Danh dự Đại học Rikkyo

các hiệp ước, hiệp định lịch sử giữa việt nam với pháp và mỹ (1787 - 1973)

các hiệp ước, hiệp định lịch sử giữa việt nam với pháp và mỹ (1787 - 1973)

Các Hiệp Ước, Hiệp Định Lịch Sử Giữa Việt Nam Với Pháp Và Mỹ (1787 - 1973)

Lịch sử là một chuỗi các sự kiện có mối liên hệ, tác động, chi phối lẫn nhau, đôi khi một diễn biến/hoạt động nhỏ cũng có thể thay đổi vận mệnh của một quốc gia. Trên trường quốc tế, những hiệp ước và hiệp định chính trị là thứ có thể đem lại lợi ích hoặc cũng có thể là rủi ro cho một hoặc nhiều quốc gia liên quan. Nhìn lại lịch sử Việt Nam thời kỳ đương đầu với sự bành trướng, cai trị của thực dân Pháp cũng như công cuộc kháng chiến chống Mỹ, có thể thấy rõ tầm quan trọng cũng như tính quyết định của các hiệp ước và hiệp định. Những lần ký kết mang tính lịch sử ấy sẽ có điều gì cần bàn luận? Bối cảnh và bài học lịch sử nào sẽ được rút ra?

Sách sẽ là câu trả lời cho những ai đang tìm kiếm câu trả lời cho vấn đề trên. Các tác giả của cuốn sách, GS.TS. Nguyễn Văn Khánh (chủ biên), TS. Bùi Thị Hà, TS. Lê Văn Phong đã nghiên cứu, biên soạn một cách có hệ thống theo chiều lịch đại các hiệp ước, hiệp định theo thời gian từ Hiệp ước Versailles được ký vào cuối thế kỷ XVIII, đến các hiệp ước ký giữa Pháp với triều đình Nguyễn vào nửa sau thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Cuối cùng là các hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Pháp và Mỹ vào năm 1954 và 1973. Đối với từng hiệp ước, hiệp định các tác giả cũng làm rõ bối cảnh lịch sử, quá trình chuẩn bị và thảo luận, đấu tranh và đàm phán để đi đến ký kết, nội dung cơ bản của hiệp ước và cuối cùng là ý nghĩa của từng hiệp ước/hiệp định đối với công cuộc đấu tranh giải phóng và giữ nước, bảo vệ và khôi phục nền độc lập dân tộc, cũng như những tác động đối với tiến trình phát triển lịch sử của Việt Nam.

Bên cạnh đó, cuốn sách cũng cung cấp đến bạn đọc toàn bộ văn bản các hiệp ước, hiệp định bằng cả tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, từ các nguồn lưu trữ tin cậy của Việt Nam, Liên hợp quốc và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Cùng với đó là tổng hợp tranh ảnh về các cuộc đàm phán và ký kết hiệp ước, hiệp định giữa đại diện của Việt Nam với đại diện của chính quyền Pháp và Mỹ. Từ đây, quý bạn đọc có thể tiện cho việc tra cứu và so sánh khi tìm hiểu và nghiên cứu về các hiệp ước, hiệp định này.

phòng cách học phương tây đương đại - khuynh hướng và lĩnh vực nghiên cứu (sách chuyên khảo)

phòng cách học phương tây đương đại - khuynh hướng và lĩnh vực nghiên cứu (sách chuyên khảo)

Phòng Cách Học Phương Tây Đương Đại - Khuynh Hướng Và Lĩnh Vực Nghiên Cứu (Sách Chuyên Khảo)

Tác giả Nguyễn Thế Truyền trong lời nói đầu của sách mong muốn: “Hy vọng rằng những nội dung của cuốn sách này sẽ cung cấp cho người đọc một toàn cảnh về phong cách học đương đại phương Tây, qua đó giúp người đọc tiếp tục đi sâu vào lĩnh vực này hoặc ứng dụng có hiệu quả vào những vấn đề cụ thể của phong cách học và nghiên cứu văn chương tiếng Việt”.

Sách có năm chương với hơn 360 trang, tổng cộng có 111 tài liệu tham khảo là những công trình nghiên cứu về phong cách học của nước ngoài đương đại. Ngoài chương 1 là những vấn đề chung của phong cách học, chương 2 là bối cảnh học thuật (thành tựu mới của ngôn ngữ học hiện đại, trào lưu mới trong nghiên cứu văn chương và những lĩnh vực mới trong nghiên cứu trí tuệ và tương tác xã hội), thì chương 3 đi sâu vào tìm hiểu diện mạo của các khuynh hướng nghiên cứu phong cách học đương đại. Trong đó, TS. Nguyễn Thế Truyền đã hệ thống các khuynh hướng nghiên cứu phong cách học một cách cụ thể, rõ ràng về khuynh hướng tích hợp phân ngành, chuyển đổi hướng tiếp cận, mở rộng phạm vi nghiên cứu và đặc biệt rất mới là, ứng dụng các công cụ nghiên cứu hiện đại, như khối liệu điện tử, máy tính điện tử, phần mềm chuyên dụng… Còn ở chương 5 “Những hạt giống tương lai”, tác giả khảo cứu về phong cách học truyện tranh, phong cách học về phim, phong cách học đa phương thức, phong cách học và hư cấu siêu văn bản, phong cách học và sinh học thần kinh. Đây có thể thấy là một hướng đi rất mới, rất giàu tính ứng dụng trong các lĩnh vực mỹ/nghệ thuật hiện nay.

Chẳng hạn với những người làm truyện tranh, họ sẽ bắt gặp trong chương này cách nhìn toàn diện về truyện tranh hiện đại. Như khái niệm truyện tranh (phương diện văn hóa, lịch sử...); các phương diện phong cách của truyện tranh (phong cách Nhật, phong cách Mỹ, phong cách châu Âu...); phương diện về ngôn từ, kết cấu trang, hình dạng thân thể nhân vật. Hoặc với phong cách “siêu biến dạng”, hình thức “cường điệu và ngoa dụ”... Hoặc về thể loại phim, cuốn sách đã hệ thống về “phong cách học về phim” một cách khá rõ ràng theo xu hướng hiện đại. Các kiến thức về phim, như “phim và các loại phim” cho người đọc có một cách nhìn hệ thống trong việc khu biệt với các loại hình nghệ thuật khác. Ở phần đặc điểm của phong cách học về phim, tác giả nêu nhận xét: “Lúc ban đầu, phong cách học về phim, đúng như tên gọi khiêm tốn của nó, chỉ tập trung trong việc nghiên cứu chuyển thể phim từ tiểu thuyết, phân tích cách thức một phiên bản văn bản gốc chuyển thể thành một phương tiện truyền thông mới và bàn luận về tính trung thực của sự chuyển thể (...). Sau đó các phong cách học dần dần nghiên cứu một cách độc lập hơn...”. Theo các nhà phong cách học, “phim như một thiết chế văn hóa”, “một tập hợp quy ước và siêu ngôn ngữ để miêu tả những hành động ngôn từ và phi ngôn từ”.

100 câu hỏi về lịch sử chữ quốc ngữ

100 câu hỏi về lịch sử chữ quốc ngữ

100 Câu Hỏi Về Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ

“100 câu hỏi về lịch sử chữ quốc ngữ” như một cách tiếp cận khác về chữ quốc ngữ dưới dạng hỏi đáp.

Đôi khi trong chúng ta có ai tò mò về chữ quốc ngữ, dù cho ta không có thời gian đọc cả một cuốn sách, nhỡ đâu ta có thể tìm thấy câu trả lời trong cuốn sách này.

Tác giả cố gắng đặt mình vào vị trí của độc giả và của người Việt Nam nói chung, để tự vấn mình những vấn đề xoay quanh lịch sử chữ viết mà chúng ta dùng hằng ngày: hoàn cảnh ra đời, quá trình hình thành, phát triển, cũng như những nhân vật có nhiều đóng góp quan trọng chữ quốc ngữ.

Độc giả cũng có thể tìm thấy trong cuốn sách này những giải thích về logic chính tả của chữ quốc ngữ và cả những biến chuyển lớn lao trong đời sống xã hội, văn hóa - giáo dục…

GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ

TS. Phạm Thị Kiều Ly

- Giảng viên Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

- Thành viên Viện Nghiên cứu Lịch sử các lý thuyết ngôn ngữ - Trung tâm nghiên cứu khoa học Quốc gia Pháp.

- Lĩnh vực nghiên cứu chính: Lịch sử chữ quốc ngữ; lịch sử chữ viết hệ La-tinh của ngôn ngữ của các dân tộc tại Việt Nam; di sản ngôn ngữ và tư liệu; ngữ học truyền giáo tại châu Á.

Phạm Thị Kiều Ly bảo vệ luận án Tiến sĩ tại Đại học Sorbonne Nouvelle (Pháp) năm 2018, cô chuyên nghiên cứu về lịch sử chữ quốc ngữ và lịch sử ngữ pháp tiếng Việt. Cô quan tâm nghiên cứu lịch sử chữ viết của các dân tộc thiểu số cũng như di sản ngôn ngữ của các dân tộc đang có nguy cơ biến mất.

Ngoài việc chuyên tâm đi sưu tầm tư liệu về Việt Nam tại châu Âu, Phạm Thị Kiều Ly cũng rất quan tâm đến việc phổ biến kiến thức khoa học tới đại chúng bên cạnh việc xuất bản các công trình nghiên cứu chuyên khảo trên các tạp chí quốc tế và trong nước.

nguồn gốc tộc người của các quốc gia - the ethnic origins of nations

nguồn gốc tộc người của các quốc gia - the ethnic origins of nations

Nguồn Gốc Tộc Người Của Các Quốc Gia - The Ethnic Origins Of Nations

Anthony D. Smith là một nhà xã hội học lịch sử người Anh. Ông từng là Giáo sư về Chủ nghĩa dân tộc và Dân tộc tại Trường Kinh tế London. Ông được coi là một trong những người sáng lập lĩnh vực nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc liên ngành.

Ông lấy bằng đầu tiên về triết học tại Đại học Oxford, đồng thời lấy bằng thạc sĩ và tiến sĩ Xã hội học tại Trường Kinh tế London. Ông là chủ tịch đầu tiên của Hiệp hội Nghiên cứu dân tộc và Chủ nghĩa dân tộc.

Cuốn sách này là một trong những đóng góp xuất sắc và toàn diện nhất của Smith về những cách thức mà các loại hình “dân tộc” và “tộc người” hình thành và phát triển theo thời gian.

Ông đưa ra các ý niệm rằng tất cả các dân tộc đều có “các cốt lõi tộc người” thống trị (dominant ‘ethnic cores’); ông cũng nhấn mạnh rằng chủ nghĩa dân tộc không chỉ là một hiện tượng của thời hiện đại, mà còn có các nguồn gốc từ thời tiền hiện đại.

Ông xác lập một phương pháp tiếp cận chủ nghĩa dân tộc mà ông gọi là tộc người - biểu tượng luận (ethnosymbolism) - tập trung vào việc nghiên cứu các yếu tố văn hóa, tôn giáo, biểu tượng, phong tục, tập quán và ngôn ngữ,… để hiểu cách chúng góp phần vào việc hình thành và thúc đẩy tinh thần dân tộc và quốc gia.

Theo Smith, chủ nghĩa dân tộc không đòi hỏi tất cả các thành viên của một “dân tộc” phải giống nhau, mà chỉ yêu cầu họ phải cảm thấy có một mối liên hệ mãnh liệt về tình đoàn kết với dân tộc và các thành viên khác của dân tộc ấy. Ý thức về chủ nghĩa dân tộc có thể tồn tại và được tạo ra từ bất kỳ một hệ tư tưởng thống trị nào tồn tại ở một địa bàn nhất định. Chủ nghĩa dân tộc được xây dựng trên các hệ thống thân tộc, tôn giáo và tín ngưỡng đã từng tồn tại từ trước. Smith mô tả các nhóm tộc người tạo nên nền tảng của các dân tộc hiện đại là các “tộc người”.

Smith định nghĩa chủ nghĩa dân tộc là “một phong trào mang tính ý thức hệ nhằm đạt được và duy trì quyền tự chủ, sự thống nhất và bản sắc nhân danh một cộng đồng dân cư mà theo ý kiến của một số thành viên của cộng đồng đó sẽ tạo nên một ‘dân tộc’ thực sự hoặc một ‘dân tộc’ tiềm năng”.

Các đánh giá về tác phẩm

“Phạm vi công trình của tác giả Smith thật ngoạn mục... Ở một khía cạnh nào đó, Phần I là phần độc đáo nhất của cuốn sách; theo hiểu biết của tôi thì không có một công trình nghiên cứu nào có thể so sánh được”.

- Tạp chí Lịch sử Tộc người Mỹ

“Không nghi ngờ gì nữa, đây là một đóng góp quan trọng đối với nguồn tư liệu nghiên cứu về chủ nghĩa dân tộc... đây là một công trình khảo cứu chu đáo, sâu sắc về nguồn gốc và sức mạnh của bản sắc dân tộc. ... Tôi không ngần ngại giới thiệu công trình này tới tất cả những người nghiên cứu về chủ nghĩa dân tộc”.

- Walker Connor, Trường Cao đẳng Trinity, Hartford. Giáo sư thỉnh giảng khả kính về Khoa học Chính trị tại Đại học Middlebury (Middlebury, Vermont, Hoa Kỳ). Connor nổi tiếng với công trình nghiên cứu về chủ nghĩa dân tộc và được đánh giá là một trong những người sáng lập lĩnh vực nghiên cứu liên ngành về chủ nghĩa dân tộc.

"Một công trình nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về một chủ đề quan trọng. Nó thảo luận một cách toàn diện về các cộng đồng tộc người trong thời kỳ tiền hiện đại và về các tộc người, các dân tộc trong thời kỳ hiện đại. Ngoài việc dựa trên những sự kiện chắc chắn, nó còn hợp lý về mặt phương pháp và mang tính khơi gợi, mời gọi, kích hoạt về mặt khái niệm... không một nhà khoa học chính trị, một sử gia hay một nhà xã hội học nào có thể tiến hành công cuộc nghiên cứu nghiêm túc của mình mà không tham khảo cuốn sách này”.

- A. Jacob M. Landau. Giáo sư danh dự thuộc Khoa Khoa học Chính trị (chuyên ngành Nghiên cứu Trung Đông), Đại học Do Thái, Jerusalem.

“Chiều sâu kiến thức chuyên môn của Giáo sư Smith thật đáng kinh ngạc và công trình nghiên cứu này xứng đáng có một vị trí nổi bật ở bất cứ nơi nào mà chủ nghĩa dân tộc được bàn đến”.

- Michael Levin, Giáo sư triết học Chuyên ngành Nghiên cứu Tộc người và Chủng tộc, Cao đẳng thành phố New York

việt kiệu thư (trọn bộ 3 tập)

việt kiệu thư (trọn bộ 3 tập)

"Việt Kiệu Thư" là trước tác duy nhất hiện nay còn lưu giữ được của Lý Văn Phượng (1512 - 1542), một viên quan nhà Minh xuất thân khoa cử, nhận nhiệm vụ quản lý, giám sát các hoạt động quân đội, bao gồm luyện tập tuần phòng, bố trí đồn sở, các việc liên quan đến binh dịch tại Quảng Đông, Vân Nam. Bộ sách được hoàn thành vào tháng 6 năm Canh Tý niên hiệu Minh Gia Tĩnh thứ 19 (1540), trên cơ sở kết quả thu thập, khảo cứu nhiều nguồn tài liệu thư tịch sử chí, phương chí của các triều đại, từ Hán đến Minh, do các tác giả người Việt và Hán biên soạn.

Nguyên bản chữ Hán của "Việt Kiệu Thư" gồm 20 quyển, mà theo lời tự bạch của chính Lý Văn Phượng trong trước tác này: “Phượng nhân lúc việc quan nhàn rỗi chọn lọc rồi chia làm từng loại, được thành 20 quyển. Phần đầu nói về địa dư, phong tục, vật sản, ấy là xét về ngọn nguồn dân sinh. Tiếp đến là chiếu thư, chế, sắc, là trọng lời nói của vua vậy. Rồi kế đến là việc biên niên lập quốc, chế độ trước sau, ấy là chép việc thực vậy. Tiếp đến chép là thư sớ, di văn, là để cho tường tận vậy… Lại tiếp đến văn, phú, thi, từ, cùng là thần, thiếp của nước ấy hễ có một điều hay cũng được chép đủ, là để thấy phong tục hay dở ưa chuộng của một phương vậy. Hợp cả lại mà gọi sách ấy là "Việt Kiệu Thư".

Trong bang giao với quốc gia láng giềng thời trung đại, các vương triều phong kiến Trung Quốc luôn áp đặt những nguyên tắc bất bình đẳng, thể hiện tập trung qua hoạt động sách phong, triều cống rất phức tạp. Quan hệ bang giao Việt Nam - Trung Quốc thế kỷ XV-XVI được xem là giai đoạn điển hình cho tính chất phức tạp này.

Chính vì thế, "Việt Kiệu Thư" được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là biên khảo có giá trị cao, vừa là một biên khảo địa phương chí, địa lý chí, vừa là một sử thư - tức ghi chép lịch sử… cung cấp thông tin cho việc nghiên cứu lịch sử quan hệ Trung - Việt, lịch sử Việt Nam. Sử liệu về Việt Nam giai đoạn triều Minh được "Việt Kiệu Thư" chép đầy đủ, chi tiết có nhiều nội dung có thể bổ sung cho những ghi chép sơ lược và khuyết thiếu của "An Nam truyện" trong "Minh sử" cũng như các bộ thư tịch cổ của Việt nam

Bỏ qua những hạn chế về quan điểm, góc nhìn, cách dùng từ ngữ của một tài liệu biên khảo do tác giả người Hán biên soạn, với mong muốn cung cấp cho quý độc giả một nguồn tư liệu quý, bao quát nhiều nội dung, từ diên cách hành chính, quá trình lập quốc, thay đổi triều đại, phong tục, sản vật, về các việc hình luật, binh chế, trường học... của Việt Nam, MaiHaBooks liên kết cùng Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành trọn bộ 3 tập (20 quyển) "Việt Kiệu Thư" và hân hạnh giới thiệu đến bạn đọc.

1. Việt Kiệu Thư (Trọn Bộ 3 Tập)

2. Bộ Bo Góc Bảo Quản

301 câu đàm thoại tiếng hoa (tái bản 2024)

301 câu đàm thoại tiếng hoa (tái bản 2024)

Cuốn 301 CÂU ĐÀM THOẠI TIẾNG HOA có 40 bài và bài ôn tập nhưng đã đề cập đến nhiều đề tài giao tiếp thông thường trong đời sống. Ngôn ngữ trong các bài đó ngắn gọn, trong sáng, mang tính khẩu ngữ rất cao. Hệ thống các điểm ngữ pháp tập trung vào các đặc điểm ngữ pháp tiếng Hoa, hệ thống bài tập đa dạng phong phú, dễ hiểu, dễ luyện tập.

Tuy nhiên, vì là giáo trình đàm thoại lại dùng làm giáo trình cơ sở để dạy và học tiếng Hoa giai đoạn ban đầu sẽ khiến cho người học gặp khó khăn trong việc trang bị kiến thức và tiến hành luyện tập về ngữ âm, chữ viết. Mặt khác, giáo trình này soạn cho người nước ngoài nói tiếng Anh nên chưa nhấn mạnh đúng mức đến những điểm ngữ pháp khác tiếng Việt như định ngữ, bổ ngữ…

Để giúp người học khắc phục khó khăn nói trên, trong lần dịch lại cuốn sách này, ngoài việc tôn trọng nguyên vẹn nội dung của tài liệu gốc, chúng tôi có thêm một phần giới thiệu ngữ âm tiếng Hoa, chữ Hoa. Sau mỗi bài, chúng tôi bổ sung thêm một bài tập viết các chữ Hoa mới xuất hiện trong bài và bài tập luyện dịch Việt – Hoa.

Ở mỗi bài ÔN TẬP có thêm phần “Góc kiến thức” - giới thiệu vài vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc – giúp người học vừa có thêm kiến thức vừa tăng thêm hứng thú học tập. Ngoài ra, còn có các phụ lục hướng dẫn cách tra từ điển và cung cấp một số thông tin hữu ích cho người học như: bộ thủ, tên các tỉnh, thành phố và một số họ thông thường của Việt Nam và Trung Quốc.

giáo trình tiếng trung tăng cường - giáo trình tổng hợp - quyển 5/6 (khổ lớn)

giáo trình tiếng trung tăng cường - giáo trình tổng hợp - quyển 5/6 (khổ lớn)

Giáo Trình Tiếng Trung Tăng Cường - Giáo Trình Tổng Hợp - Quyển 5/6 (Khổ Lớn)

Bộ Giáo trình Tiếng Trung tăng cường là bộ giáo trình chủ lực mới nhất của Trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh. Nó phù hợp yêu cầu thay đổi giáo trình 5 năm gần nhất của các Khoa, Trường và Trung tâm ngoại ngữ của Việt Nam và Trung Quốc.

Bộ giáo trình bám sát hai đề cương là “Đề cương thi HSK” và đề cương “Kỳ thi tốt nghiệp giáo dục dự bị đại học dành cho lưu học sinh chính quy du học tại Trung Quốc do Chính phủ Trung Quốc cấp học bổng”, với mục đích bồi dưỡng một cách toàn diện các kỹ năng nghe – nói – đọc – viết cho học viên bắt đầu từ đầu, theo nguyên tắc “HỌC ĐỂ THI”. Học viên học theo bộ giáo trình có thể thi HSK từ cấp 1 đến cấp 5.

Những ưu điểm chính của bộ giáo trình gồm:

– Tập trung phong phú thêm kiến thức nhằm nhanh chóng nâng cao kỹ năng ngôn ngữ

– Nội dung trình bày thuận tiện cho việc giảng dạy trên lớp và sự tiếp thu của học viên

– Ngôn ngữ của bài khóa sinh động, linh hoạt, gần gũi với cuộc sống, hình thức luyện tập phong phú.

– Nội dung giáo trình bám sát thực tiễn xã hội hiện đại. Người học có thể học nhiều từ vựng, mẫu câu liên quan đến các chủ đề của xã hội như mạng xã hội Wechat, mua bán trực tuyến; thanh toán di động; Bảo vệ môi trường

– Tài nguyên hỗ trợ phong phú đồng bộ. Học liệu, video, bài văn mẫu thuận tiện cho việc dạy và học

– Đặc biệt HỌC MỌI LÚC MỌI NƠI cùng với khóa học miễn phí tại: . Học theo khóa học trực tuyến giúp học viên làm quen với hình thức thi trực tuyến – như kỳ thi HSK.

Bộ giáo trình này bao gồm 6 quyển Sách Bài học tổng hợp, 6 quyển Sách Bài tập tổng hợp. Bài học và Bài tập phối hợp với nhau, mỗi quyển 16 bài. Giáo trình tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của “Đề cương thi HSK” và đề cương “Kỳ thi tốt nghiệp giáo dục dự bị đại học dành cho lưu học sinh chính quy du học tại Trung Quốc do chính phủ Trung Quốc cấp học bổng”, sắp xếp cụ thể như sau:

Quyển 1-2 trải đều toàn bộ 600 từ của Đề cương HSK cấp 1-3, bao gồm một phần từ HSK cấp 4, trải đều toàn bộ các điểm ngôn ngữ của Đề cương HSK cấp 1-3. Bài khóa được biên soạn dựa theo Đề cương chủ đề đàm thoại HSK cấp 1-3, trên cơ sở chú trọng tính chân thực. Người học sau khi học xong quyển 1, tiếng Trung có thể đạt đến trình độ HSK cấp 2; sau khi học xong quyển 2, tiếng Trung có thể đạt đến trình độ HSK cấp 3.

Quyển 3-4 trải đều toàn bộ 1200 từ cùng với điểm ngôn ngữ của Đề cương HSK cấp 4. Bài khóa được biên soạn dựa trên Đề cương chủ đề đàm thoại HSK cấp 4, đồng thời nâng cao và mở rộng các chủ đề đàm thoại có liên quan. Người học sau khi học xong quyển 3-4, tiếng Trung có thể đạt đến trình độ HSK cấp 4.

Quyển 5-6 trải đều toàn bộ 2500 từ của Đề cương HSK cấp 5 và 3000 từ của đề cương “Kỳ thi tốt nghiệp giáo dục dự bị đại học dành cho lưu học sinh chính quy du học tại Trung Quốc do chính phủ Trung Quốc cấp học bổng”, đồng thời trải đều toàn bộ điểm ngôn ngữ của Đề cương HSK cấp 5. Bài khóa được biên soạn và viết lại dựa trên Đề cương chủ đề đàm thoại HSK cấp 5, chú trọng tính chân thực về nội dung, chú ý cả tính thú vị. Người học sau khi học xong quyển 5-6, tiếng Trung có thể đạt đến trình độ HSK cấp 5, đồng thời có thể thuận lợi thông qua Kỳ thi thống nhất tốt nghiệp giáo dục dự bị đại học dành cho lưu học sinh chính quy du học tại Trung Quốc do chính phủ Trung Quốc cấp học bổng.

bộ sách lịch sử thế giới - the penguin history of the world (bộ 5 cuốn)

bộ sách lịch sử thế giới - the penguin history of the world (bộ 5 cuốn)

Bộ Sách Lịch Sử Thế Giới (Bộ 5 Cuốn)

“Trong ấn bản mới này, nhà sử học Odd Arne Westad đã hiệu đính toàn bộ tác phẩm mang tính bước ngoặt này để kể tiếp câu chuyện đến đầu thế kỷ XXI, bao gồm các cuộc tấn công 11 tháng Chín và những cuộc chiến ở Trung Đông. Westad sử dụng những thành tựu sử học đáng chú ý trong mấy thập niên gần đây để nâng cao phạm vi bao quát của cuốn sách về cuộc sống buổi đầu của con người và cải thiện đáng kể phần trình bày về Ấn Độ và Trung Quốc, Trung bộ Á-Âu, thế giới Hồi giáo sơ kỳ, và Đế chế Byzantium, cũng như lịch sử khoa học, công nghệ, và kinh tế. Kết quả là một tác phẩm cô đọng và tổng hợp thực sự đáng chú ý, lướt qua hàng ngàn năm lịch sử, đan dệt những câu chuyện về các đế quốc, nghệ thuật, tôn giáo, kinh tế, và khoa học thành một tự sự trong sáng và hấp dẫn. Trải từ những vượn người sơ khai và sự xuất hiện của các nền văn minh Mesopotamia và Ai Cập cổ đại, cuốn sách này trình bày tiếp các chủ đề như Đế quốc La Mã, sự xuất hiện mạnh mẽ của Hồi giáo, sự hưng thịnh và sụp đổ của tầng lớp samurai ở Nhật Bản, các vương quốc thời trung cổ ở châu Phi Hạ-Sahara, các cuộc chinh phạt của người Mông Cổ, và sự bành trướng toàn cầu của châu Âu vào sơ kỳ cận đại; một số trang đáng kể cũng được dành cho cuộc đấu tranh giành độc lập của Mỹ, Cách mạng Pháp, các đế quốc thuộc địa, quá trình hiện đại hóa đáng kinh ngạc của Nhật Bản, và hai cuộc thế chiến.”

Giống như Will Durant, Roberts cũng nhìn lịch sử loài người chủ yếu là lịch sử của những nền văn minh, từ những bước sơ khai kéo dài mấy ngàn năm trong bóng tối của thời tiền sử cho đến những xã hội hiện đại với những tiến bộ công nghệ và thay đổi sâu rộng trong những nền văn hóa, trong đó có cả những chiến tranh và xung đột mà đôi khi khiến người ta nghĩ tới cuộc xung đột giữa các nền văn minh, chứ không chỉ là cuộc tranh giành lãnh thổ, kho tàng, và tài nguyên.

Theo hai tác giả, lịch sử hiện đại – từ khoảng năm 1500 đến nay – là chiến thắng toàn cầu của văn hóa Tây Âu. Những năm sau Thế chiến II đã đánh dấu sự kết thúc quyền bá chủ toàn cầu của Tây Âu. Châu Á đang bước lên sân khấu lịch sử khi sức mạnh của Mỹ ngày càng trở nên rõ rệt. Nhưng đó là một châu Á hiện đã tiếp nhận một cách có chọn lọc nhiều lý tưởng về văn hóa, kinh tế, và chính trị của Tây Âu. Tuy sức mạnh của Tây Âu đã suy yếu, nhưng những thay đổi sâu rộng mà tư tưởng Âu châu đem lại vẫn tác động đến phần còn lại của thế giới.

Chương cuối sách, hai tác giả nhấn mạnh tới vai trò thống trị của văn minh Tây Âu (và những nhánh của nó phát triển ở Bắc Mỹ và châu Úc) xét theo tầm ảnh hưởng của nó đối với mọi nền văn minh và những lục địa khác. Dù mang tư tưởng bài tây phương đến đâu, bạn cũng không thể phủ nhận rằng con người ngày nay, dù ở châu lục hay quốc gia nào, đều hầu như chấp nhận những giá trị Âu châu, như cộng hòa, dân chủ, bình đẳng, chính quyền đại diện, tách biệt thế quyền và thần quyền, dân tộc tự quyết, … Nhiều vấn đề ưu tư lớn của con người ngày nay, như môi trường, nữ quyền, bình đẳng giới, biến đổi khí hậu… cũng xuất phát từ văn minh Âu Mỹ. Thậm chí con người ngày nay gần như ăn mặc giống nhau, theo Âu phục, đến nỗi những trang phục truyền thống của nhiều nền văn hóa đã trở thành một hình thức hoài niệm hoặc kỷ vật lưu niệm cho du khách. Họ đã trình bày nhận định này rất thuyết phục.

Với những dân tộc ngoài châu Âu, chịu sự đô hộ của các đế quốc châu Âu, cách duy nhất để họ quật khởi và giành độc lập là học theo người Âu (ngay cả những quốc gia cựu thuộc địa và đi theo chủ nghĩa cộng sản thì cũng dựa trên một học thuyết từ châu Âu), rồi đánh bại họ bằng chính những võ khí của họ. Lịch sử sau phong trào giải thực cũng cho thấy, quốc gia nào tây phương hóa nhanh và hiệu quả, đều vươn lên thành những nước phát triển. Ta có thể thấy điều này ở những nước như Nhật, Hàn Quốc, Singapore, và Trung Quốc.

Roberts là người có cái nhìn bao quát. Và đây là một cuốn sách vẽ ra bức tranh toàn cảnh. Mặc dù nó là một biên niên sử ghi lại mọi diễn biến chính có ý nghĩa lịch sử bắt đầu từ tổ tiên tiền sử của loài người cho đến những năm đầu của thế kỷ XXI, nhưng nó không phải là mớ hỗn độn vô nghĩa của các sự kiện và số liệu. Roberts vận dụng kiến thức uyên bác của mình để vạch ra trong đó những tiến trình lịch sử chính trong quá khứ của loài người.

Dĩ nhiên, khi cô đọng lịch sử loài người từ tiền sử đến hiện đại trong khoảng 1.200 trang (bản tiếng Anh), tác giả không thể ôm đồm hay sa lầy vào dữ kiện, mà phải chắt lọc những chi tiết tối cần thiết, và phải đòi hỏi bạn đọc tự trang bị một số kiến thức lịch sử, địa lý, chính trị, xã hội… tối thiểu, hoặc chịu khó tự tra cứu để hiểu rõ vấn đề đang được trình bày. Như thế, hai tác giả chủ yếu mang đến cho chúng ta những nhận định, tức là những ý kiến cá nhân, và đương nhiên là chủ quan, quanh những diễn biến lớn trong lịch sử loài người. Và những nhận định đó trở thành cơ hội cho chúng ta suy nghĩ, thảo luận, phản bác, hoặc mở ra những hướng tìm hiểu mới.

Do đó, tác phẩm này xứng đáng là sách tham khảo cho bạn đọc quan tâm tới lịch sử nhưng không theo đuổi chuyên ngành này. Và không những để tham khảo khi cần thiết mà nó còn xứng đáng được đọc lại nhiều lần.

301 câu đàm thoại tiếng hoa - bản chữ phồn thể

301 câu đàm thoại tiếng hoa - bản chữ phồn thể

301 Câu Đàm Thoại Tiếng Hoa - Bản Chữ Phồn Thể

Bộ giáo trình 301 câu đàm thoại tiếng Hoa hiện là giáo trình giảng dạy ở các trung tâm ngoại ngữ cho học viên ở trình độ A. Bộ giáo trình này đã được biên dịch ra tiếng Việt, được Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội xuất bản và đang được dùng ở một số trường và trung tâm ngoại ngữ.

Một số thông tin khác:

- Đáp án bài tập

- Bản dịch các bài đọc

- Bộ thủ và cách viết các bộ thủ của tiếng Hoa

- Tập viết các chữ mới xuất hiện trong bài

- Các dấu chấm câu và ký hiệu dùng trong câu

Giáo trình được biên soạn khoa học, đơn giản, dễ hiểu, dễ ứng dụng, có những ưu điểm sau:

- Các mẫu câu đàm thoại theo 50 tình huống thường gặp

- Chú thích ngữ pháp, ngữ âm ngắn gọn, dễ hiểu

- Hệ thống bài tập được xây dựng một cách logic

- Bài giới thiệu về ngữ âm và chữ viết tiếng Hoa

- Hướng dẫn viết chữ theo bộ thủ sau mỗi bài học

- Nhiều phụ lục có giá trị, gồm:

+ 140 bộ thủ thường dùng trong tiếng Hoa

+ Tên các tỉnh, thành phố của Việt Nam và Trung Quốc

+ Các họ thường gặp của người Việt Nam và Trung Quốc

+ Dấu câu và các ký hiệu thường dùng trong văn bản tiếng Hoa

+ Đáp án bài tập

bộ sách lịch sử văn minh thế giới - phần v - thời kỳ phục hưng (bộ 3 cuốn)

bộ sách lịch sử văn minh thế giới - phần v - thời kỳ phục hưng (bộ 3 cuốn)

Bộ Sách Lịch Sử Văn Minh Thế Giới - Phần V - Thời Kỳ Phục Hưng (Bộ 3 Cuốn)

Phần V - Thời kỳ Phục hưng, Will Durant phân tích vai trò then chốt của nước Ý trong quá trình tạo xúc tác phát triển văn hóa và trí tuệ của thời kỳ này. Nước Ý đã trở thành một nhánh rễ chính cho sự phát triển thời kỳ Phục hưng, trong đó những thành phố của nó, như Florence, Venice và Rome, là những trung tâm hoạt động nghệ thuật và trí tuệ.

Không chỉ phát triển rực rỡ về nghệ thuật, khoa học, nước Ý cũng được coi là nơi khởi nguồn ra chủ nghĩa tư bản, khi họ đi tiên phong trong các hình thức ngân hàng, thương mại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cho phép tích lũy của cải.

Di sản quan trọng của nước Ý vào lịch sử thế giới trong thời kỳ Phục hưng, là nơi hội tụ tâm văn hóa và tri thức. Các nghệ sĩ, nhà văn và nhà tư tưởng người Ý đã cách mạng hóa nghệ thuật và khoa học, khám phá lại di sản cổ điển của Hy Lạp và La Mã, đồng thời truyền cho nó sức sống mới và phù hợp với thời đại của họ. Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raphael và các nghệ sĩ người Ý khác đã tạo ra một số tác phẩm nghệ thuật lâu dài và có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nhân loại, trong khi các nhà nhân văn và triết học người Ý như Petrarch và Machiavelli đã giúp định hình thế giới quan hiện đại.

Dưới ngòi bút uyên bác của Durant, thời kỳ Phục hưng khắc họa chiến thắng của lý trí và chủ nghĩa nhân văn đối với thế giới siêu nhiên và “Thuyết huyền bí" và chiến thắng này đã giành được ở Ý. Các nhà tư tưởng và nghệ sĩ người Ý đã tạo tiền đề cho kỷ nguyên hiện đại, với sự nhấn mạnh vào chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thế tục và nghiên cứu khoa học, đồng thời mở đường cho những biến đổi văn hóa và trí tuệ rộng lớn của nhân loại.

Phần V - “Thời kỳ Phục hưng” của Bộ sách Lịch sử văn minh Thế giới (gồm 11 phần) được chia thành 03 tập sách:

- Tập 1: Thời phục hưng - Bình Minh

- Tập 2: Thời Phục hưng - Chính Ngọ

- Tập 3: Thời Phục hưng - Hoàng Hôn

bộ sách lịch sử văn minh thế giới - phần vii - thời đại lý trí khởi đầu (bộ 3 cuốn)

bộ sách lịch sử văn minh thế giới - phần vii - thời đại lý trí khởi đầu (bộ 3 cuốn)

Bộ Sách Lịch Sử Văn Minh Thế Giới - Phần VII - Thời Đại Lý Trí Khởi Đầu (Bộ 3 Cuốn)

Tập hợp các câu chuyện lịch sử lôi cuốn và hấp dẫn kể về con đường gập ghềnh hướng tới sự Khai sáng.

Đây là thời đại của những vị nhà trị vì hùng mạnh và những nghệ sĩ kiệt xuất của mọi thời đại (một bên là Elizabeth đệ nhất của Anh, Philip II của Tây Ban Nha & Henry IV của Pháp; và một bên là những Shakespeare, Cervantes, Montaigne & Rembrandt). Giai đoạn này cũng được tỏa sáng khi xuất hiện những tinh tú triết học và khoa học hiện đại như Ba.con, Gal.ileo, Gio.rdano Br.uno & Desc.artes.

Đây cũng là một thời đại bạo lực tột độ, thời điểm mà cả châu Âu bị lôi kéo vào Cuộc Chiến tranh Ba Mươi Năm khủng khiếp – đây là cuộc chiến về tôn giáo và quyền lực mà về quy mô và mức độ tàn khốc có thể khiến người ta so sánh nó như một cuộc chiến tranh thế giới thứ 1. Tất cả câu chuyện lịch sử, văn hóa trong Phần VII này sẽ đem đến cho chúng ta những cảm xúc mạnh mẽ, những suy tư sâu sắc và cũng là những bài học đầy ý nghĩa.

Phần VII của Bộ sách: “Thời đại lý trí khởi đầu” được chia thành ba Tập sách:

- Thời huy hoàng của nước Anh

- Chiến tranh tôn giáo

- Sự thăng trầm của Tây Ban Nha và những bước ngập ngừng của lý trí.

Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

Liên Hệ