<p>Thuở nhỏ, Schweitzer là một cậu bé nhạy cảm, ngoan ngoãn và nghĩa hiệp. Cậu yêu quý và luôn bảo vệ sự sống của các con vật nhỏ bé quanh mình.</p>
<p>Schweitzer sớm nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực như Triết học, Thần học và đặc biệt là nổi tiếng với tài diễn tấu đàn đại phong cầm. Nhưng xuất phát từ lòng thương cảm những người da đen đang bị đói rét, bệnh tật hoành hành, nên ông đã tạm gác lại tất cả để theo học ngành Y trong 6 năm ròng. Tốt nghiệp, ông đến châu Phi hoạt động tình nguyện, cứu trợ người da đen, bất chấp rừng thiêng nước độc, thiếu thốn và dịch bệnh. Để có tiền xây dựng bệnh viện, ông đã đi nhiều nước giảng dạy, thuyết trình. Được nhận giải Nobel Hòa bình, ông đã dùng tiền thưởng để xây dựng làng bệnh nhân phong ở châu Phi…</p>
<p>Tiến sĩ Schweitzer là con chiên ngoan đạo của Chúa, là vị thánh của rừng nhiệt đới châu Phi, là sứ giả của lòng nhân ái. Tinh thần đoàn kết, lòng dũng cảm, hành động cao cả, và hơn hết là lòng nhân ái đẹp đẽ của ông vẫn còn sống mãi.</p>
<p>Albert Schweitzer (1875-1965)</p>
<p>˜1875: Sinh ngày 14 tháng 1 trong một gia đình mục sư ở làng Kaysersberg (Đức)</p>
<p>˜1880: Học tiểu học ở Trường Gunsbach</p>
<p>˜1885: Vào học Trường Trung học cơ sở Mulhouse</p>
<p>˜1893: Vào học Trường Đại học Strasbourg, ngành Triết học và Thần học</p>
<p>˜1894: Phục vụ trong quân đội 1 năm</p>
<p>˜1899: Nhận học vị tiến sĩ Triết học</p>
<p>˜1900: Nhận học vị tiến sĩ Thần học, trở thành Mục sư</p>
<p>˜1902: Giảng dạy ở Trường Đại học Strasbourg. Tham gia hoạt động tình nguyện ở châu Phi</p>
<p>˜1905: Bắt đầu học ở Trường Đại học Y</p>
<p>˜1911: Tốt nghiệp Đại học Y</p>
<p>˜1912: Học ngành Y học nhiệt đới ở Paris. Tháng 6, kết hôn với Helene Bresslau</p>
<p>˜1913: Nhận học vị tiến sĩ Y học, cùng với vợ đến Lambarene để hoạt động tình nguyện</p>
<p>˜1914: Bị bắt làm tù binh của quân đội Pháp</p>
<p>˜1917: Được thả tự do, trở về Gunsbach</p>
<p>˜1921: Đi thuyết giảng khắp châu Âu để quyên tiền xây dựng bệnh viện ở Lambarene</p>
<p>˜1923: Xuất bản tập 1, 2 cuốn “Văn hóa Triết học”</p>
<p>˜1924: Trở lại Lambarene, xây bệnh viện, chữa bệnh miễn phí</p>
<p>˜1930: Xuất bản cuốn “Tư tưởng và cuộc sống của tôi”</p>
<p>˜1937: Nhận học vị tiến sĩ danh dự về Thần học, Luật học, Âm nhạc học</p>
<p>˜1952: Nhận giải Nobel Hòa bình, dùng tiền thưởng xây làng bệnh nhân phong ở Lambarene</p>
<p>˜1957: Vợ ông, bà Helene mất</p>
<p>˜1960: Được nước Cộng hòa Gabong trao tặng Huân chương Thập tự Thánh xích đạo</p>
<p>˜1965: Mất ngày 4 tháng 9 tại Lambarene, thọ 90 tuổi.</p>