tắt đèn

tắt đèn

Tắt Đèn

Ngô Tất Tố (1893-1954) được biết đến là nhà văn, nhà báo, nhà Nho học, nhà nghiên cứu và dịch giả có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam giai đoạn trước năm 1954. Với văn chương, ông là “cây đa cây đề” của nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam, chuyên viết về người nông dân ở nông thôn trước Cách mạng tháng Tám 1945. Nhận xét về tài năng của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng có nói “Ngòi bút rắn chắc của Ngô Tất Tố đã không e dè đưa lên những sự thật. Người nông dân giãy lên trên những dòng chữ của Ngô Tất Tố. Cái mạnh, cái sắc của Ngô Tất Tố ở chỗ dám nhìn thẳng vào sự thực, căm giận, chửi rủa và phá bỏ. Cái mạnh, cái sắc của Ngô Tất Tố còn ở chỗ đi sâu vào những khía cạnh đen tối, sai trái của kẻ thù.”

Tắt đèn được biết đến là tác phẩm tiêu biểu của Ngô Tất Tố, tiểu thuyết ra đời vào năm 1939. Đọc Tắt đèn, ta thấy toàn cảnh cay đắng, nghiệt ngã của những thân phận thấp bé trong xã hội xưa và nghẹn ngào, đau xót với thân phận phụ nữ bị dồn vào đường cùng.

“Nhưng nay, Tắt đèn của Ngô Tất Tố đã ra đời. Tôi dám chắc rằng các nhà phê bình chân chính sẽ cùng đồng ý với tôi để mà công nhận rằng cái áng văn mà thiên hạ đương chờ đợi ấy thì đây, nó đã có đây! Tắt đèn là một thiên tiểu thuyết có luận đề xã hội - điều ấy cố nhiên - hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng thấy, mà lại của một tác giả đã được cái may hơn nhiều nhà văn khác là đã được sống nhiều ở nơi thôn quê, cho nên có đủ thẩm quyền.

Thật thế, đọc quyển Tắt Đèn này những độc giả khó tính sẽ cũng phải chịu rằng óc quan sát của Ngô Tất Tố về những cảnh làm ruộng, thu thuế, trốn thuế, chè chén, xôi thịt, hà lạm, ức hiếp, bán vợ đợ con của đám dân quê, quả thực là một thứ óc quan sát rất tinh tường, rất chu đáo; cho đến cách hành văn nữa, cũng là mới mẻ, sáng sủa, tưởng chừng như chỉ có phái nhà văn thuộc Pháp học thì mới có thể lĩnh hội và phô diễn nổi một cách linh hoạt như thế.” (Trích lời tựa của Vũ Trọng Phụng)

“Những giọt mưa ngâu rả rích như khêu cơn buồn cho kẻ xa nhà. Cảnh khổ cực của chồng và con tự nhiên kéo đến đầy trước mắt chị.” (Trích Tắt đèn)

danh tác việt nam - việc làng

danh tác việt nam - việc làng

Danh Tác Việt Nam - Việc Làng

Ngô Tất Tố (1893-1954) được biết đến là nhà văn, nhà báo, nhà Nho học, nhà nghiên cứu và dịch giả có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam giai đoạn trước năm 1954. Với văn chương, ông là cây đa cây đề của nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam, chuyên viết về người nông dân ở nông thôn trước Cách mạng tháng Tám 1945. Nhận xét về tài năng của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng có nói “Ngòi bút rắn chắc của Ngô Tất Tố đã không e dè đưa lên những sự thật. Người nông dân giãy lên trên những dòng chữ của Ngô Tất Tố. Cái mạnh, cái sắc của Ngô Tất Tố ở chỗ dám nhìn thẳng vào sự thực, căm giận, chửi rủa và phá bỏ. Cái mạnh, cái sắc của Ngô Tất Tố còn ở chỗ đi sâu vào những khía cạnh đen tối, sai trái của kẻ thù.”

Việc làng là một thiên phóng sự được xuất bản năm 1941. Việc làng tái hiện nên một bức tranh khái quát và chân thực về cuộc sống làng quê Việt Nam đầu thế kỷ XX thông qua những hủ tục, lệ làng - thứ mà làm tội làm vạ dân chúng trong xã hội xưa.

“Một bữa lệ làng có thể gây cho người ta món nợ lãi chung thân không trả hết.” (Trích Việc làng)

kinh dịch trọn bộ (tái bản 2024)

kinh dịch trọn bộ (tái bản 2024)

Kinh Dịch Trọn Bộ

Khổng Tử đã từng nói: “Nếu cho tôi sống thêm vài năm nữa, thì cho dù 50 tuổi học Kinh Dịch cũng không phải là sai lầm”.

Có thể nói, Kinh Dịch là một trước tác kinh điển lâu đời nhất, kết tinh trí tuệ của văn hóa Trung Hoa cổ đại. Kinh Dịch phát hiện tính quy luật và phương pháp nhận thức, dự đoán, xử lý sự vật, và với ý nghí nghĩa phương pháp luận này, nó có ảnh hưởng quan trọng đối với nhiều lĩnh vực như triết học, khoa học xã hội, văn hóa nghệ thuật… của Trung Quốc từ xưa đến nay.

Trong Kinh Dịch có 384 hào, có nghĩa là có 384 lời khuyên hữu ích.

Lật mở từng trang sách, bạn sẽ có cảm giác nhẹ nhàng, khoan khoái, bạn hẳn sẽ không nghĩ rằng quản lý trong học thuật truyền thống lại được viết ra gần gũi, dễ hiểu đến thế. Ở đó, bạn không hề thấy bất kỳ hơi thở nào mang âm hưởng nghiên cứu Nho giáo, càng không hề thấy chỗ nào khó hiểu cả. Đáng quý hơn là, bạn sẽ thấy mỗi một điểm trong cuốn sách này đều liên quan mật thiết đến công việc của bản thân mình. Mỗi một quan điểm, mỗi một kiến giải trong đó đều giúp chúng ta thoát ra khỏi khó khăn và cản trở để trưởng thành trong công việc.

kinh dịch - bìa cứng (tái bản 2024)

kinh dịch - bìa cứng (tái bản 2024)

Kinh Dịch Trọn Bộ - Bìa Cứng (Tái Bản 2024)

Khác với trước đây, lần này, nhân dịp tái bản lần thứ 25 Trọn bộ sách Kinh Dịch của Ngô Tất Tố, dựa trên bản sách do Nhà Mai Lĩnh in năm 1943, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu kết quả tra cứu và tìm hiểu về công việc của Dịch giả Ngô Tất Tố, góp phần giải trình cách học Kinh Dịch”. Nói đến Kinh Dịch, nhiều thế hệ bạn đọc từ trước tới nay đều cho rằng đây là cuốn sách viết về đạo lý khó hiểu, không dễ đọc. Nếu đọc kỹ chú giải ngắn gọn của Dịch giả về Quẻ Tỉnh và Quẻ Tiết: “Tỉnh là cái giếng, là ấp làng”;“Tiết là cái dóng trên thân cây tre”, bạn đọc sẽ cảm thấy quen thuộc ngay, gần gũi ngay với Kinh Dịch mà không còn quá e ngại, quá bận tâm với áp lực và câu hỏi đâu là những đạo lý bí ẩn, cao siêu. Đọc đến Lời Kinh của hai quẻ lại càng cảm thấy không quá khó, sau khi có được ít nhiều hiểu biết ban đầu, người đọc sẽ hào hứng, thích thú tiếp tục nhập môn Dịch học.

Nội dung 64 quẻ khác trong trọn bộ Kinh Dịch là mênh mông, muôn hình vạn trạng nhưng làm sao tạo được ấn tượng thanh thản, nhẹ nhàng và dễ dàng khi tiếp cận ban đầu với Kinh Dịch là điều hết sức có ý nghĩa.

lão tử đạo đức kinh

lão tử đạo đức kinh

Triết học của Lão Tử là một sự phản động của tình hình suy đồi xã hội Trung Quốc về hai thế kỷ 5, 6 trước Thiên Chúa giáng sinh. Muốn cho thiên hạ trở lại đạo đức, Lão Tử đã mượn hai chữ ấy để chỉ hai vật sinh dưỡng của vạn vật. Đạo là vật nguyên thủy duy nhất sinh ra Đức và vạn vật, rồi vạn vật lại trở về Đạo theo luật thiên nhiên và công bằng không bị một sức gì sai khiến.

Vũ trụ của Lão Tử là một vũ trụ vô thần. Lão Tử nhận thấy thiên nhiên bao giờ cũng

có lợi, can thiệp vào việc thiên nhiên thì có hại, nên đề xướng thuyết “vô vi”, trừ khử triệt để những cái mà người ta gọi là văn hóa, văn minh ở trên đời, trở lại thói thuần phác của đời mông muội; cá nhân lấy đạo tu thân, lấy đức bất tranh cư xử với mọi người; kẻ cầm quyền lấy đạo cảm hóa dân chúng, dùng hòa binh, vô sự lấy thiên hạ.

Lão Tử ở vào một thời đại trọng lễ nghi, lề lối, nhưng không có một thành kiến nào. Đối với bao nhiêu phong tục phong hóa đương thời, Lão Tử đã xét theo nguyên tắc nhất định của lý thuyết mình. Vì vậy, chủ trương của Lão Tử hết sức táo bạo, kịch liệt không khác phương pháp cách mệnh, nhiều chỗ thực là quá đáng và không thể thực hành được. Nhưng đó cũng là một cái thông bệnh của những sự phản động như người phương Tây thường nói.

mặc tử

mặc tử

Trang Tử ngợi khen Mặc Tử rằng: “Tuy vậy, Mặc Tử là người tốt ở gậm trời vậy. Muốn tìm không thể được vậy. Dầu cho khô héo cũng không thể bỏ được vậy. Thật là tài sĩ vậy!”. Thật vậy, Mặc Tử thật là “người tốt ở gậm trời, muốn tìm không thể được”, Hồ Thích cho rằng: “mòn trán lỏng gót, cái gì lợi cho thiên hạ thì làm”, như Mặc Tử, trong lịch sử nước Tàu, không thể có một người thứ hai.

Mặc Tử sống nhằm giữa hồi Lão giáo Nho giáo cực kỳ bành trướng, vì không chịu nổi sự phiền toả của Nho gia, cũng không kham nổi sự phóng túng của Lão gia, muốn chống lại hai làn sóng ấy, Mặc Tử phải tự lập một học thuyết trái lại.

Mặc Tử nhận rằng: Các sự rối loạn đều do ở lòng tự tư tự lợi mà ra. Nay muốn thiên hạ được khỏi nạn ấy, cần nhất phải làm thế nào cho hết thảy mọi người đều biết yêu nhau, đều coi quyền lợi của người như quyền lợi của mình, thì mới trừ được cái gốc sinh ra tai vạ. Vì vậy mới xướng chủ nghĩa Kiêm ái.

Nhưng Kiêm ái là một công trình lớn lao, không thể chỉ bước một bước mà tới. Người ta còn chưa trau dồi tư đức cho khỏi có điều càn bậy, lầm lỗi, thì không thể nào đi đến chủ nghĩa Kiêm ái, Mặc Tử nghĩ vậy, nên lại xướng ra những thuyết Tiết dụng, Tiết táng, Phi mệnh, Quý nghĩa… để làm khuôn mẫu cho mọi người. Trong bấy nhiêu thuyết, thì thuyết Tiết dụng là quan hệ hơn. Mặc Tử thấy rằng: Loài người mà không yêu nhau, và hay tranh nhau, giết nhau, ăn hiếp lẫn nhau, lừa đảo lẫn nhau, chẳng qua vì lòng ham muốn mà ra. Thế mà cái gốc của lòng ham muốn thì là những sự xa xỉ hoa lệ, hễ nhổ được cái gốc ấy chắc lòng ham muốn sẽ bớt phát triển, người ta sẽ bớt tự tư tự lợi, thì mới biết quý điều nghĩa, chuộng người hiền, hy sinh quyền lợi của mình để giúp đỡ cho người, thâm ý của chủ nghĩa Tiết dụng là vậy.

danh tác việc nam - việc làng

danh tác việc nam - việc làng

Danh Tác Việc Nam - Việc Làng

Ngô Tất Tố để lại nhiều tác phẩm có giá trị thuộc nhiều thể loại, tiêu biểu như các tiểu thuyết Tắt đèn (1939), Lều chõng (1940), các phóng sự Tập án cái đình (1939), Việc làng (1940).

Trong tập phóng sự Việc làng, làng Việt Nam cổ xưa đã biến thành một triều đình phong kiến thu nhỏ, lợi dụng sự mê tín của dân chúng, thực dân phong kiến đã giở mọi trò lừa bịp nhằm thực hiện chính sách ngu dân, bóc lột.

"Thế mà hết đời này sang đời khác người ta vẫn nhẫn tâm bắt dân đeo cái xích sắt ấy mà lại muốn cho dân cường nước thịnh thì cũng lạ thay!" (trích Cứ để cho nó chết). "Hủ tục không phải là thứ thiên kinh địa nghĩa, nó vẫn có thể thay đổi. Vậy mà nó vẫn được coi như vị thần thiêng, không ai dám động đến nó... Lạ thay!" (trích Lớp người bị bỏ sót).

Phóng sự việc làng chứa đựng một khối lượng kiến thức sâu rộng, được ghi lại rất cụ thể, rành mạch, đã lôi cuốn bạn đọc đi từ ngạc nhiên này đến bất ngờ khác rất chi tiết về bộ mặt nông thôn với hàng loạt phong tục, hủ tục diễn ra liên miên dai dẳng trong đời sống và xã hội dân quê cách đây non một thế kỷ.

Chuyện ăn uống chốn đình trung được khai thác ở rất nhiều khía cạnh, góc độ tưởng như để tố cáo, lên án những hủ tục “quái gỡ”, “mọi rợ”, đẩy người dân vào cảnh điêu đứng, khốn cùng, nợ nần, thậm chí có người phải thắt cổ tự tử cũng chỉ vì miếng ăn cho làng. Nhưng không, phải nhìn cho thấu “làng” ở đây đâu phải để nói tới những người dân làng nói chung, những kẻ khốn cùng mà là để vạch mặt những kẻ đặt ra và duy trì những hủ tục ấy, dựa vào nó để kiếm lợi, củng cố quyền lực trên mồ hôi nước mắt, thậm chí cả xương máu của dân đen, con đỏ… Hiểu như thế mới thấy được tác dụng của thiên phóng sự này. Bằng tấm lòng “vị tha” rất phương Đông, Ngô Tất Tố nhìn vào hiện thực mà lên án nạn thịt xôi ở chốn “cửa Khổng sân Trình”, phê phán tâm lý hiếu danh, tiêu cực của người dân làng xã nhưng không xem đó là bản chất của họ. Đấu tranh cho con người, Ngô Tất Tố không chỉ biết vạch ra, phê phán mà còn thông cảm với họ, nếu có điều kiện thì đề cao họ và trực tiếp vạch mặt những kẻ gây ra khổ cảnh của họ.

lều chõng (tái bản 2022)

lều chõng (tái bản 2022)

Lều Chõng (2022)

Ngô Tất Tố (1894 -1954)

Ngô Tất Tố sinh năm 1894 tại làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, nay là thôn Lộc Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn sáng lập trào lưu hiện thực trong nền văn học nước nhà với các tác phẩm tiêu biểu như Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng, Tập án cái đình… Ông đồng thời là nhà báo nổi tiếng với biệt tài viết tản văn và chính luận, là nhà văn hoá thành danh với các pho truyện lịch sử, khảo cứu triết học, dịch thuật, phê bình… Với tổng số hơn 30 bút danh, trên hơn 30 tờ báo, tạp chí, suốt 30 năm cầm bút viết văn làm báo, Ngô Tất Tố đã để lại hơn 1500 tác phẩm các thể loại.

Ngô Tất Tố được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật Đợt I (1996). Từ gần 20 năm nay, Thủ đô Hà Nội thường xuyên tổ chức Giải thưởng báo chí Ngô Tất Tố hàng năm. Trên cả nước có 8 thành phố lớn có phố và đường phố mang tên Ngô Tất Tố.

"Lều chõng" đã thực hiện "một tua du lịch" sinh động, thú vị, giúp các thế hệ hậu sinh, lội ngược dòng thời gian để tiếp cận và khám phá về “Lều chõng”, khu vực có ý nghĩa đặc biệt, không chỉ là chuyện văn chương, chữ nghĩa mà còn gắn bó mật thiết đến vận mệnh đại sự của quốc gia, đến sự tồn vong, hưng thịnh của đất nước

tắt đèn (tái bản 2022)

tắt đèn (tái bản 2022)

Tắt Đèn (2022)

“Tắt đèn là một cuốn xã hội tiểu thuyết tả cảnh đau khổ của dân quê, của một người đàn bà nhà quê An Nam suốt đời sống trong sự nghèo đói và sự ức hiếp của bọn cường hào và người có thế lực mà lúc nào cũng vẫn hết lòng vì chồng, vì con”.

(Ngô Tất Tố)

“Theo tôi tiên tri, thì cuốn Tắt đèn còn phải sống lâu, thọ hơn cả một số văn gia đương kim hôm nay. Chị Dậu đích là tác giả Ngô Tất Tố hoá thân ra mà thôi. Chị Dậu là cái đốm sáng đặc biệt của Tắt đèn. Nếu ví toàn truyện Tắt đèn là một khóm cây, thì chị Dậu là cả gốc cả ngọn cả cành và chính chị Dậu đã nổi gió lên mà rung cho cả cái cây dạ hương Tắt đèn đó lên”.

( Nguyễn Tuân - 1962 )

“Chị Dậu là nhân vật điển hình được người đọc yêu mến. Và người yêu mến chị hơn cả là Ngô Tất Tố. Giữa biết bao tệ nạn và cảnh đời bất công ngang trái ở nông thôn Việt Nam cũ, Ngô Tất Tố đã hết lòng bảo vệ một người phụ nữ là chị Dậu. Nhiều lần chị Dậu bị đẩy vào tình thế hiểm nghèo, rất có thể bị làm nhục nhưng Ngô Tất Tố đã giữ cho chị Dậu được bảo đảm toàn vẹn, giữ trọn phẩm giá, không phải đau đớn, dằn vặt”.

    Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

    Liên Hệ