<p>Dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm nhiều tập của hai tác giả Huỳnh Ngọc Trảng và Phạm Thiếu Hương thuộc chương trình “Tìm về nét Việt”, dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ được Quỹ Hoa Sen cấp ngân sách tài trợ với thời gian thực hiện trong ba năm, từ năm 2017 đến năm 2019, dựa trên nguồn hỗ trợ tài chính từ Công ty Karaoke Nice, Quán sách Mùa thu, cùng các thân hữu và bạn đọc tham gia các hoạt động tại Đường sách Thành phố Hồ Chí Minh.</p>
<p>Cuối năm 2019, dự án Sưu tầm - Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ hoàn thành, nghiệm thu và được NXB Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM đưa vào kế hoạch xuất bản năm 2020. Tháng 7 năm 2020, bốn quyển đầu tiên của Tập 1 trong bộ tổng tập 7 tập 12 quyển chính thức trình làng bạn đọc gần xa. Tuy nói rằng nhóm tác giả tập trung trong ba năm, song thực tế công trình đã được tích lũy trong hàng nhiều năm nghiên cứu điền dã, sưu tầm, và ba năm chính là thời gian tiếp tục khảo sát, hệ thống, sắp xếp, biên soạn và hoàn chỉnh. Có thể nói đây là một công trình công phu, tâm huyết, giá trị.</p>
<p>Rõ ràng, việc sưu tầm – biên soạn một Tổng tập Văn học dân gian ở một vùng đất không chỉ là việc thu gom đơn giản và tùy tiện, mà bao gồm nhiều thao tác nghiêm túc, khoa học, từ việc chọn lựa – xử lý văn bản, đến việc khảo dị, chú giải tên người, tên đất, sự vật, sự việc, sự kiện lịch sử, văn hóa – xã hội... trong văn bản. Mặt khác, sau khi biên soạn các tập thành văn bản cho mỗi thể loại, cũng rất cần thiết tiến hành nghiên cứu chúng cốt đưa ra những thông tin, những nhận định có tính tổng kết. Đó là những tiểu luận khoa học trình bày rõ nguồn gốc, lịch sử, nội dung, đặc điểm, tính chất của các thể loại thuộc kho tàng văn học dân gian ở vùng đất mới phương Nam này.</p>
<p>Nói chung, Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ là một sưu tập nhằm cung cấp tư liệu cho việc tìm hiểu, nghiên cứu. Một mặt, bộ sách góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc; và mặt khác, từ đó, hiểu thêm về các khía cạnh lịch sử văn hóa – xã hội, đất và người Nam bộ.</p>
<p>Dự án Sưu tầm – Biên soạn bộ Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập và thực hiện trong 3 năm.</p>
<p>Tập 1: Truyện kể dân gian Nam bộ</p>
<p>Tập 2: Ca dao - Dân ca Nam bộ</p>
<p>Tập 3: Vè Nam bộ</p>
<p>Tập 4: Tuồng tích sân khấu và Diễn xướng dân gian Nam bộ</p>
<p>Tập 5: Tục ngữ</p>
<p>Tập 6: Truyện thơ và thơ vè lục tỉnh Nam Kỳ</p>
<p>Tập 7: Đồng dao và câu đố</p>
<p>Riêng tập 1 (4 quyển) với chủ đề truyện kể dân gian Nam bộ gồm các thể tài sau đây:</p>
<p>Quyển 1: Sự tích thần kỳ và hoang đường; Cổ tích</p>
<p>Quyển 2: Truyền thuyết địa danh và thôn làng; Truyền thuyết thú dữ; Truyền thuyết lịch sử thuộc thời Chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn; Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp; Truyền thuyết về chư tăng và các ông Đạo</p>
<p>Quyển 3: Giai thoại văn nghệ; Cố sự thời thuộc địa</p>
<p>Quyển 4: Truyện ngụ ngôn; Truyện cười; Truyện Trạng</p>
<p>Kho tàng truyện ngụ ngôn dân gian Nam bộ về cơ bản, thuộc dòng truyện ngụ ngôn dân gian truyền thống. Tức đó là các truyện ngắn bao gồm một tích truyện được kể nhằm đưa ra một thông điệp về nhân sinh, một kết luận luân lý, triết lý hay một ý răn đời hoặc một nhận xét về thực tế. Chủ đề hoặc để đề cao trí thông minh, phẩm chất chính trực, sự khôn ngoan, lòng nhân ái...hay giễu cợt, châm biếm thói đời xấu xa, nhân tình thế thái đầy ý vị.</p>
<p>Ở tập hợp các truyện ngụ ngôn sưu tầm được ở miền Tây Nam bộ, đặc biệt loạt truyện ngụ ngôn nói về thỏ, chó sói, rái cá, chồn, voi, chim sẻ... rất dễ nhận ra đây là truyện ngụ ngôn gốc từ kho tàng văn học dân gian của đồng bào Khmer, thậm chí có một số truyện vốn từ truyện ngụ ngôn Ấn Độ mà nguồn gốc cụ thể là từ tập truyện Sri Hiptopatế (Hiptopadesa), dị bản Nam Ấn của bộ truyện ngụ ngôn lừng danh Panchatantra.</p>
<p>Hiển nhiên là do quá trình cộng cư chan hòa của người Việt và người Khmer là tiền đề khởi tạo nên hiện tượng giao lưu – tiếp biến văn hóa này. Điều này đã làm phong phú đáng kể cho kho tàng truyện ngụ ngôn dân gian Nam bộ.</p>
<p>...</p>
<p>Truyện cười ở Nam bộ, theo cách phân loại thông thường, có thể phân thành hai loại: truyện khôi hài và truyện trào phúng.Tập hợp truyện khôi hài có hình thức như là những “trích đoạn” ngắn từ những sự việc xảy ra đây đó trong sinh hoạt hàng ngày: Tiếng cười được tạo ra là do một hành vi, một cử chỉ thất thường hay do vụng về trong lời đối thoại.</p>
<p>Các đối thoại diễn ra thì lời nói gây cười là câu nói ở đó xuất hiện một từ/cụm từ làm người nghe hiểu lệch hướng qua một nội dung khác. Đó có thể là cách chơi chữ kiểu “nhất tự lục nghĩa” tức cũng là từ đó, cụm từ đó được mở ra nhiều cách hiểu khác nhau, hướng sự việc được hiểu theo cách hài hước. Lại cũng phổ biến là cách cố ý đọc sai một số chữ Hán để sau đó đính chính lại nhằm biểu đạt ý kiến phê phán thói xấu nào đó của thế nhân.</p>
<p>Thêm nữa, cách đọc trại những câu châm ngôn chữ Hán vốn có ý nghĩa nghiêm túc thành ra câu nói nôm na thông tục dẫn đến một trường ngữ nghĩa cực kỳ táo tợn, thậm chí biến “thanh” thành “tục”...</p>
<p>Loại truyện khôi hài cũng thâu tóm các hành vi vụng về làm đối tượng phản ánh của mình. Ở đó, mỗi câu chuyện kể lại một sự việc và qua đó phơi bày các thói hư tật xấu của các hạng người trong xã hội đồng thời cũng hàm ý phê phán những tật xấu của các loại hạng ấy như thói ham mê cờ bạc, thói đĩ thõa, keo kiệt, hà tiện, hèn nhát, tham lam, dốt nát. Ở đây, tiếng cười dừng lại ở sự trào lộng hơn là đả kích như trong tập hợp truyện trào phúng,Truyện trào phúng là truyện châm biếm mang đậm ý nghĩa nhân sinh, được coi là tiếng cười xã hội. Ở đó, mũi nhọn tập trung vào các mối quan hệ xã hội trong các nhóm xã hội cụ thể.</p>
<p>…</p>
<p>3. Một số truyện thuộc hệ thống truyện Trạng Quỳnh đã xuất hiện ở vùng đất này năm 1866 trong tập Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký và truyện Ba Giai - Tú Xuất, sau đó, cũng xuất hiện trong tập Chuyện khôi hài cũng của tác giả này, xuất bản năm 1882. Đây là chứng cớ cho thấy kiểu truyện trạng ở miền Bắc đã có mặt ở phương Nam. Chúng ta không có bằng chứng cụ thể, nhưng có thể dự đoán được rằng những khuôn mẫu của truyện trạng từ miền Trung, miền Bắc cũng đã theo chân những lưu dân vào đây từ khá lâu đời. Đều đó giải thích sự tương đồng của những mẫu đề của truyện cười và truyện trạng ở Nam bộ với các truyện trạng truyền thống và xác định truyện trạng Nam bộ kế thừa và phát triển dòng truyện trạng Việt ở một tọa độ địa lý – lịch sử mới.</p>
<p>Đến nay truyện trạng Nam bộ gồm truyện Thằng Dày, truyện Tư Nụm, truyện Ông Ó, truyện Ông Me, truyệnBảy Lẹ, truyện Bộ Ninh, truyện Tám Cồ, truyện Tám Chợ, truyện Hồng Cẩm Miêu và truyện Bác Ba Phi. Ngoài ra, chúng ta cũng được biết đến các ông trạng ở các miệt khác như Ông Cheo, Trùm Pho, Mười Công ở vùng Thủ Dầu Một xưa hay ở đất Gia Định xưa, nhưng số lượng truyện của các ông trạng này hầu như đã thất truyền, chỉ còn một vài truyện mà nay có thể sưu tầm được như truyện Ông Cheo đẽo cẳng lấy dăm nấu nước pha trà, truyện Ông Mười Phoăn thịt cheo nướng chấm cát thay vì muối, truyện Ông Mười Công kể về con sáo biết nói của bà nội... Đa phần các truyện trạng Nam bộ, không nhiều thì ít chen lẫn với một số truyện cười đậm chất trào lộng hơn là trào phúng.</p>
<p> </p>
<p>+ TRUYỆN NGỤ NGÔN</p>
<p>- MẮT VÀ MŨI; CON GÁI CẦU CHỒNG ĐẠI VƯƠNG; ĐẠI TRƯỢNG PHU, CHÍ QUÂN TỬ VỚI PHÚ TRƯỞNG GIẢ; NGÀY CUỐI CÙNG THÀNH PHẬT; LÀM ƠN MẮC OÁN CỨU VẬT, VẬT TRẢ ƠN; MƯU TRÍ HƠN LÀ SỨC MẠNH; TU THẬT - TU GIẢ; PHƯỢNG HOÀNG HAI ĐẦU; THÀ IM CÒN HƠN NÓI; GIEO GIÓ GẶP BÃO...</p>
<p>+ TRUYỆN CƯỜI</p>
<p>* TRUYỆN KHÔI HÀI</p>
<p>* LỜI NÓI</p>
<p>* HÀNH VI</p>
<p>* CỬ CHỈ</p>
<p>* TẬT</p>
<p>* TRUYỆN TRÀO PHÚNG</p>
<p>TRÀO PHÚNG 1-2-3-4: THÓI HƯ TẬT XẤU CÁ NHÂN (GIA ĐÌNH - TRONG LÀNG NGOÀI NGÕ - HƯƠNG CHỨC VÀ QUAN LẠI)</p>
<p> </p>
<p>+ TRUYỆN TRẠNG</p>
<p>TRUYỆN THẰNG DÀY; CHUYỆN THẰNG DÀY; TRUYỆN ÔNG Ó; TRUYỆN BỘ NINH; TRUYỆN TÁM CỒ; TRUYỆN ÔNG ME; TRUYỆN BẢY LẸ; TRUYỆN TÁM CHỢ; HỒNG CẨM MIÊU; TRUYỆN BA PHI…</p>
<p> </p>
<p>Trích TỔNG QUÁT VỀ CỘI NGUỒN VÀ DIỆN MẠO</p>
<p>Nam bộ là vùng đất mới. Thời lượng lịch sử, tính đến nay chỉ trên dưới ba trăm năm là một trong những nhân tố quyết định xác lập những đặc trưng văn hóa của vùng đất này cũng như đặc điểm của văn học dân gian, trong đó có kho tàng truyện dân gian. Tuy nhiên, văn hóa Nam bộ lại không mới nếu hiểu theo nghĩa nó không phải bắt đầu từ con số không mà là sự phát triển những truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc ở một không gian mới có những điều kiện tự nhiên và lịch sử – xã hội cụ thể. Chính vì vậy nên chúng ta có thể tìm thấy được những di tích các mẫu đề xa xưa trong kho tàng truyện dân gian ở đây.</p>
<p>Trong Gia Định thành thông chí, sách viết hồi đầu thế kỷ XIX, khi nói về núi Bà Dinh/Bà Đen (tức núi Điện Bà, Tây Ninh), tác giả Trịnh Hoài Đức có chép lời tục truyền về việc “trông thấy cái chuông vàng nơi đáy hồ giống như việc cái khánh ở sông Tứ, cái chuông thấy được ở sông Giang, nhưng đến gần thì biến mất. Lại có đêm trời quang mây tạnh, thấy có thuyền rộng bơi lượn, hát múa du dương, lại thấy con rùa vàng lớn hơn một trượng bất thời bơi lặn trong hồ”. Truyền thuyết này khiến cho chúng ta liên tưởng đến cái chuông nằm dưới đáy Hồ Tây, đến con rùa ở Hồ Hoàn Kiếm của đất Thăng Long và dường như con rùa đây cũng là hồi quang của con rùa vàng – thần Kim Qui, trong truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy... Và rồi, ở truyền thuyết mang tính chất từ nguyên địa danh dân gian về tên gọi sông Cổ Chiêng cũng thấy dấu ấn của mẫu đề “cái chuông chìm dưới nước” và trong những khoảng khắc thiêng liêng của trời đất, cái “Chiêng Cổ” ấy lại vang lên, dội vào lòng người dân miệt hạ lưu sông Cửu Long. Trường hợp tương tự là truyền thuyết về các đại đồng chung ở Vĩnh Thành (Cái Mơn, Bến Tre), ở vùng Chợ Gạo (Gò Công, Tiền Giang), ở chùa Gò (tức Phụng Sơn tự, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh)...</p>
<p>Lại nữa, nếu không bắt nguồn từ những mẫu đồ thần thoại về loài giao long, thủy quái, thuồng luồng xa xưa thì không có lý gì con sấu hung ác ở Bến Tre lại được gọi là... “Ông Luồng sông</p>
<p>Tiên Thủy”. Tương tự đây đó, trong một số truyền thuyết, chúng ta lại gặp cái nón có phép đưa chủ qua sông (Thầy Trung ở Cần Thơ, Bà Thầy ở Bến Tre...) giống chiếc nón tu lờ của Không Lộ.</p>
<p>Lại có nhiều chuyện nhắc đến con trâu trắng có phép rẽ nước mà đi xuống thủy cung tương tự như các truyền thuyết kể về những người có tài bơi lặn, nhờ được cái lông trâu trắng trong kho tàng chuyện cổ tích truyền thống.</p>
<p>Phổ biến không kém là dấu vết về ông Khổng Lồ. Truyện ông Khổng Lồ cưới bà Nữ Oa làm vợ mà chúng ta đã biết, dường như có một phụ bản là Sự tích tảng đá trên cây dầu ở Trại Bí(Tây Ninh) và ở nhiều nơi, từ vùng núi non Long Thành – Bà Rịa đến Hà Tiên – Bảy Núi (Long Xuyên), đều có dấu chân ông Khổng Lồ. Như vậy, các mẫu đề thần thoại đã được bảo lưu, nhưng cũng đã biến đổi đi rồi. Sự việc tảng đá nằm trên cháng ba cây dầu ở Trại Bí thì ai cũng biết là do cây dầu ấy thoạt đầu thì mọc dưới tảng đá và rồi những nhánh của nó, theo thời gian tăng trưởng, nâng tảng đá ngày một lên cao. Nhưng sự thật là sự thật. Còn dân gian thì họ suy nguyên theo kiểu khác là gán việc ấy cho ông Khổng Lồ, theo tâm thức truyền thống: đó là một con người to lớn, có sức mạnh dời non lấp biển. Còn dấu chân ông Khổng Lồ là hình lõm giống một dấu chân lớn in sâu trên đá núi thế thôi, cũng như ngược lại dấu chân bé nhỏ in trên đá là dấu chân tiên ở núi Chơn Tiên (Bà Rịa). Các giải thích này coi ra kiểu cách giống như các bàn thờ tiên trên các cụm núi ít ỏi ở miền đất này. Cách lý giải như vậy là sự suy nguyên giản đơn: cái gì không phải do con người làm ra thì được gắn cho là do các đấng siêu phàm tạo nên. Dấu chân ông Khổng Lồ chỉ là mẩu chuyện nhỏ. Ở đây chúng ta không tìm ra được tình tiết thần kỳ nào liên quan nhân quả với dấu chân trên đá ấy, chẳng hạn như hành trạng của ông Khổng Lồ, hay một sự cảm ứng thụ thai của một phụ nữ nào đó vô tình ướm bàn chân mình lên dấu chân đó để rồi sinh ra một anh hùng siêu tuyệt...</p>
<p>Nói chung những mẫu đề thần thoại cổ xưa có xuất hiện đây đó trong các truyền thuyết, nhưng không nhiều và cũng không phát triển thành những sự tích hoàn chỉnh theo kiểu cách truyền thống. Chúng tồn tại như những mảnh vụn rời rạc hoặc được tích hợp vào các sự kiện này nọ nhằm suy nguyên những hiện tượng bất thường, kỳ dị hay giải thích một địa danh.</p>