tang lễ của người an nam - nghiên cứu dân tộc học về tín ngưỡng cổ truyền - bìa cứng

tang lễ của người an nam - nghiên cứu dân tộc học về tín ngưỡng cổ truyền - bìa cứng

Tang Lễ Của Người An Nam - Nghiên Cứu Dân Tộc Học Về Tín Ngưỡng Cổ Truyền

Giới thiệu về tác phẩm

"Tang Lễ Của Người An Nam" là một công trình nghiên cứu dân tộc học về tín ngưỡng cổ truyền của người Việt, được thực hiện bởi học giả người Pháp Gustave Dumoutier (1850 - 1904). Cuốn sách là một tài liệu quý giá giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nghi thức tang lễ, một trong hai tập tục lớn (cùng với hôn nhân) có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của con người và dân tộc Việt Nam.

Nội dung chính

Tác phẩm được thực hiện dựa trên nhiều nguồn tham khảo, đặc biệt là các sách Hán Nôm như "Tam giáo chính độ thực lục", "Hồi dương nhân quả lục", "Văn bia Thân cấm khử tệ", "Ngọc lịch chí bảo biên", "Thích Ca hành táng", "Hoàng Việt luật lệ", "Soạn tập Bách Duyên kinh", "Phổ Diệu kinh", "Phật quốc ký"...

Dumoutier đã tái hiện chân thực cách thực hiện các nghi lễ trong một đám tang, từ lúc người sắp khuất núi cho đến khi nhập quan, chôn cất. Cuốn sách cũng cung cấp thông tin chi tiết về lời kinh, bài khấn, câu chú, bùa phép được sử dụng để xua đuổi ma quỷ trong tang lễ.

Giá trị của tác phẩm

"Tang Lễ Của Người An Nam" không chỉ là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, mà còn là một tư liệu quý giá cho cả người đọc phổ thông lẫn nhà nghiên cứu chuyên sâu.

* **Giá trị lịch sử:** Cuốn sách phản ánh rõ nét tín ngưỡng, phong tục tập quán của người Việt trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, thời kỳ đất nước đang trải qua những biến động lớn.

* **Giá trị văn hóa:** Tác phẩm giúp chúng ta hiểu rõ hơn về văn hóa truyền thống của người Việt, những nghi thức tang lễ được thực hiện như thế nào, ý nghĩa của chúng ra sao.

* **Giá trị thẩm mỹ:** Cuốn sách được minh họa bằng nhiều bức vẽ, tranh cổ chi tiết, sống động, cùng những mẫu bùa chú độc đáo, hiếm thấy, mang đến cho người đọc trải nghiệm trực quan và thú vị.

Ý nghĩa của tác phẩm

Dumoutier viết "Tang Lễ Của Người An Nam" vào thời điểm triều Nguyễn suy yếu, văn minh Việt Nam đang chuyển giao sang xã hội hiện đại. Những kiến thức về tâm linh, tín ngưỡng, nghi thức tang lễ được lưu giữ trong sách trở nên vô cùng quý giá, bởi chúng phản ánh một phần văn hóa truyền thống đang dần bị lãng quên.

Nhận xét

"Tang Lễ Của Người An Nam" là một công trình nghiên cứu có giá trị khoa học và văn hóa to lớn. Cuốn sách không chỉ mang đến cho người đọc những kiến thức về tín ngưỡng, phong tục tập quán của người Việt, mà còn là một minh chứng cho sự đa dạng, phong phú của văn hóa Việt Nam.

Tác phẩm là một lời nhắc nhở về sự cần thiết của việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

tiểu luận về dân bắc kỳ

tiểu luận về dân bắc kỳ

Tiểu luận về dân Bắc Kỳ: Cửa sổ nhìn vào văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ XIX

Giới thiệu tác giả và tác phẩm

**Gustave Dumoutier**, nhà Việt Nam học người Pháp thuộc thế hệ đầu tiên, đã dành trọn tâm huyết cho việc nghiên cứu và ghi chép về văn hóa Việt Nam. Ông đặt chân đến Hà Nội vào tháng 4 năm 1886 theo lời đề nghị của Tổng trú sứ Paul Bert và qua đời tại Hải Phòng vào tháng 8 năm 1904. Trong suốt thời gian ở Việt Nam, ông đã có những đóng góp to lớn cho ngành Học chính Bắc kỳ và để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ về khảo cổ, dân tộc học, tôn giáo, dân gian và văn hóa Việt Nam.

**Tiểu luận về dân Bắc Kỳ** là một trong những tác phẩm nổi tiếng và quan trọng nhất của Gustave Dumoutier. Cuốn sách được đăng lần đầu trên Tạp chí Đông Dương từ 15-3-1907 đến 15-2-1908 dưới dạng các bài viết/tiểu luận. Trước khi qua đời, trong nỗi cô đơn buồn tủi tại Đồ Sơn Hải Phòng, Dumoutier đã tự tay tập hợp và sắp xếp các bài viết của mình, bố cục các nội dung thành tập di cảo. Năm 1908, **Tiểu luận về dân Bắc Kỳ** lần đầu được ấn hành tại Nhà in Viễn Đông.

Nội dung chính của cuốn sách

**Tiểu luận về dân Bắc Kỳ** mang đến cho độc giả một bức tranh sinh động về đời sống văn hóa, phong tục tập quán và nếp sống thường nhật của người dân Bắc kỳ cuối thế kỷ XIX. Cuốn sách bao gồm sáu chủ đề lớn:

* **Xã hội:** Tổ chức làng xã An Nam, việc xét xử, việc quân…

* **Gia đình:** Sinh con, cưới hỏi, tang ma…

* **Trò giải trí và nghề nghiệp:** Ca kỹ và đào kép, các nghề, chơi bài lá, đưa đò, sơn và dầu sơn, phu trạm…

* **Thực phẩm:** Tục ăn đất, cỗ (cúng, làng, đám ma, mừng thọ), nước chấm, tín ngưỡng dân gian liên quan đến bữa ăn…

* **Y học:** Thầy lang, hiệu thuốc…

* **Mê tín:** Phù thủy và bói toán, hậu vận, cốt tướng, diện tướng…

Thông qua các chủ đề được trình bày một cách cụ thể, chi tiết dựa trên quan sát, ghi chép và diễn giải của tác giả, độc giả có thể phần nào hình dung được những nét văn hóa đặc trưng của người dân Bắc kỳ thời bấy giờ.

Giá trị lịch sử và văn hóa

**Tiểu luận về dân Bắc Kỳ** là một nguồn tư liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu về văn hóa Việt Nam. Cuốn sách được đánh giá là sự bổ khuyết cần thiết cho công trình nghiên cứu nổi tiếng về tổ chức hành chính và xã hội Việt Nam của Éliacin Luro, người lập ra Trường Tham biện Hậu bổ Sài Gòn năm 1873. Ngoài ra, nó cũng là tài liệu tham khảo cho hai học giả Nguyễn Văn Huyên và Đào Duy Anh, nhiều tranh ảnh minh họa trong Việt Nam văn hóa sử cương được Đào Duy Anh lấy từ công trình này.

Trong **Connaissance du Vietnam** (Hiểu biết về Việt Nam), hai học giả Pierre Huard và Maurice Durand đã sử dụng một số lượng lớn tranh minh họa từ **Tiểu luận về dân Bắc Kỳ**. Henri Oger thừa nhận có kế thừa Éliacin Luro, L. Cadière và Gustave Dumoutier…

Qua những công trình nghiên cứu văn hóa - tinh thần Việt Nam quan trọng nhất của các vị học giả nổi tiếng, chúng ta thấy tập hợp những nghiên cứu về văn hóa - xã hội **Tiểu luận về dân Bắc Kỳ** của Gustave Dumoutier chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.

Đánh giá chung

**Tiểu luận về dân Bắc Kỳ** là một tác phẩm có giá trị lịch sử và văn hóa to lớn. Cuốn sách mang đến cho độc giả một cái nhìn sâu sắc về văn hóa, phong tục tập quán của người dân Bắc kỳ cuối thế kỷ XIX. Qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam.

**Ảnh bìa:** Nghi trượng của quan tổng đốc, một hình ảnh thể hiện quyền uy và địa vị của quan chức thời bấy giờ.

nghi thức tang lễ của người an nam

nghi thức tang lễ của người an nam

<p>Gustave Dumoutier là nhà Việt Nam học người Pháp thuộc thế hệ đầu tiên, là một học giả có tài, một con người gắn bó và yêu mến lịch sử văn hóa Việt Nam, là nhà Đông phương học đầy nhiệt huyết có chủ trương hợp tác với giới nho sĩ Việt Nam, trân trọng và bảo tồn nền văn hóa Việt Nam truyền thống, duy trì chữ nho và khuyến khích chữ Quốc ngữ.</p>

<p>Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu về khảo cổ, lịch sử, văn hóa Việt nói chung và Hà Nội nói riêng. Và “Nghi thức tang lễ của người An Nam là một cuốn sách như vậy.</p>

<p>Đối với người Việt Nam, nghi thức tang lễ có một tầm quan trọng lớn lao, biểu hiện sự tôn trọng của người sống dành cho người chết và ý niệm của người sống về sự an nghỉ của người vừa qua đời.</p>

<p>Các nghi thức tang lễ thay đổi tùy theo thứ bậc của người qua đời, trong gia đình và ngoài xã hội; tài sản họ có lúc sống cũng như tài lực của người thân. Tang lễ là nghi thức tôn giáo, vừa thể hiện sự hiếu đạo, nghĩa tử của người sống với người chết nhưng cũng là mối quan tâm lo lắng về sự bình an, thịnh vượng hoặc hiểm họa sau này của con cháu…</p>

<p>Với tư duy khoa học và thói quen quan sát ghi chép của người phương Tây, Dumoutier và các cộng sự đã không bỏ lỡ cơ hội khi được tận mắt quan sát những nghi thức khác nhau của nghi lễ tang ma mà từ lâu họ đã quan tâm nghiên cứu tại Bắc kỳ. Không những thế, ông còn phân tích, so sánh, để tìm ra nét khác biệt trong một số nghi lễ ở các vùng miền, giữa các tôn giáo khác nhau…</p>

<p>Từ các quan sát liên quan tới tang lễ, việc để tang và lòng kính trọng mồ mả của người Bắc kỳ… Dumoutier đã viết cuốn sách này thật sát với quan điểm nghiên cứu dân tộc học tôn giáo, qua đó cung hiến cho các nhà nghiên cứu và độc giả ngày nay những tài liệu có giá trị tham khảo cần thiết.</p>

<p>Những cuốn sách của Gustave Dumoutier do Omega+ xuất bản:</p>

<p>Tiểu luận về dân Bắc Kỳ</p>

<p>Nghiên cứu bản đồ các Cửa Sông, Hải Cảng Việt Nam thế kỷ XV</p>

<p>Nghi thức tang lễ của người An Nam</p>

<p>Trích đoạn hay:</p>

<p>&nbsp;“Về việc tang ma, người ta tuân theo các qui định của sách Tam giáo. Chúng tôi không có ý nói rằng cuốn Gia lễ bị bỏ quên, nhà nào cũng có một bản, sách được mọi người thừa nhận như khuôn phép nghi lễ dùng trong gia đình, vị cố vấn sáng suốt của dân chúng; nhưng vì việc biên soạn Gia lễ chủ yếu có tính cách triết lý thuần túy, và không đề cập gì tới Phật, Thần, quỉ, rồng, nên khi sử dụng, người dẫn dù tuân theo đúng các qui định trong sách, vẫn cố làm sao để chúng phù hợp với chỉ dẫn của sách Tam giáo, bằng cách thêm thắt vào đó tất cả những gì, nằm trong tập quán Lão giáo, và kinh kệ Phật giáo, có thể làm an ổn lương tâm, trấn an tinh thần của người dân An Nam.</p>

<p>Khi nghiên cứu văn hóa, phong tục, tập quán dân gian ở Bắc kỳ, có hai điều cần nghiên cứu về mặt dân tộc học: trước hết là luật thành văn, rất tốt đẹp, với một thứ luân lý không thể chê vào đâu được, dù rằng còn đôi chút non nớt, đó là tinh hoa có chịu ảnh hưởng từ những tác phẩm của các bậc hiền triết Trung Hoa thời cổ, được duy trì lâu dài qua nhiều thế kỷ, và nhà trường dùng kinh sách đó làm phương tiện đào tạo trí thức cũng như tâm thuật cho con người; thứ đến là phong tục, hoàn toàn bất thành văn, mà ở bất cứ đâu người ta cũng buộc phải theo, và trong nhiều trường hợp “phép vua thua lệ làng”.</p>

<p>Gia lễ là lề luật, Tam giáo là phong tục.”</p>

<p>“VIẾNG TANG</p>

<p>Ai tới viếng người quá cố lần cuối phải mặc quần áo trắng; vái hai lần trước quan tài, trong lúc thốt ra ba tiếng than:</p>

<p>“Hô! Hô! Hô!” - Gia chủ nếu là con trai người quá cố phải vái lạy đáp lễ, nếu là thân thích bàng hệ hoặc các họ hàng khác thì chỉ phải nghiêng mình.</p>

<p>Có tục gia đình trả lễ cho những người phúng bằng cách gửi một vài chiếc bánh vào ngày mai táng. Bạn bè người chết được phép đóng góp vào tiền làm ma chay.</p>

<p>Ai đi viếng hoặc mang lễ vật tới điếu tang, thì ngày hôm ấy phải kiêng cữ mọi thú vui. Có ba loại người chết, không được phép phúng điếu: người tự tử, người chết đuối vì tai nạn, và người chết vì nhà sập.</p>

<p>Phụ nữ chỉ có quyền đưa đồ phúng trong phạm vi thành phố bà ta sống.”</p>

<p>“ĐƯA MA</p>

<p>Ngày và giờ an táng đã được nhà sư định trước, về việc này, ông tra cứu những tấm bảng đặc biệt ghi ngày giờ tốt xấu. Chi tiết đám táng được qui định tỉ mỉ, và ký giao kèo với nhà đòn. Có những đám ma tốn hàng nghìn đồng Đông Dương, trong khi những đám khác chỉ tốn vài quan tiền ta. Hạng thấp nhất giá sáu quan, tức khoảng 2,50 phật lăng.</p>

<p>Có thể có những đám ma tươm tất với 30 quan, tức là 15 phật lăng. Ở Hà Nội có bốn nhà thầu địa phương chuyên lo đám ma (nhà đòn), họ chịu trách nhiệm cung cấp đủ thứ cần thiết, trừ phu khiêng gọi là đô tùy, và phường nhạc (bát âm), hai việc này phải ký hợp đồng đặc biệt với nhà thầu khác.”</p>

<p>Về tác giả:</p>

<p>Gustave Dumoutier</p>

<p>Sinh năm 1850 tại Courpalay (Pháp), nhà nghiên cứu nhân học, dân tộc học và khoa học tôn giáo…</p>

<p>Dumoutier đến Hà Nội năm 1886 theo đề nghị của Tổng Trú sứ Trung – Bắc kỳ Paul Bert, được giao nhiệm vụ “người tổ chức thanh tra các trường Pháp – Việt” và sau đó trở thành Giám đốc Học chính Trung – Bắc kỳ.</p>

<p>Ông có niềm đam mê lớn với việc nghiên cứu khảo cổ, dân tộc học, tôn giáo, văn hóa, lịch sử Việt Nam và để lại nhiều công trình có giá trị. Ông qua đời tháng 8 năm 1904 tại Việt Nam.</p>

nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng việt nam thế kỷ xv

nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng việt nam thế kỷ xv

<p>Nghiên Cứu Bản Đồ Các Cửa Sông, Hải Cảng Việt Nam Thế Kỷ XV</p>

<p>Công trình Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV (nguyên tác: Étude sur un Portulan annamite du XVe siècle) của học giả người Pháp Gustave Dumoutier viết bằng tiếng Pháp, thực hiện xong tháng 8 năm 1895. Toàn bộ công trình đăng tải trên tạp chí Địa lý lịch sử và mô tả (Bulletin de géographie historique et descriptive), số 2 năm 1896, được đánh giá cao và tác giả được giải thưởng “Jomard” của Hiệp hội Địa lý năm 1897.</p>

<p>Công trình Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV, sau đây gọi tắt là Tập Hải đồ, gồm một tập 25 tờ chú thích và 24 tấm bản đồ nối tiếp từ Kinh thành Thăng Long đến cố đô Vương quốc Champa cùng với các phụ lục là hai Hành trình đường bộ và Hành trình đường thủy mà tác giả cho biết: “Đây là một tài liệu quân sự, được thiết lập dựa trên các thông tin thu thập được khoảng cuối thế kỷ XV của các phái viên do vua Lê Thánh Tông cử đi mật thám để vẽ chuẩn bị cho việc thôn tính Champa được thuận lợi.”</p>

<p>Với 24 tấm bản đồ và phụ lục kèm theo viết bằng chữ Hán hoặc Nôm, G. Dumoutier đã thực hiện: sao, chụp lại các tấm bản đồ; đọc và phiên âm các địa danh, các chỉ dẫn ra chữ Quốc ngữ và giải nghĩa bằng tiếng Pháp, đánh số ngay sát các chữ Hán, hoặc Nôm trên bản đồ những con số tương ứng để người đọc dễ đối chiếu; chuyển ngữ từ Hán, hoặc Nôm ra chữ Quốc ngữ và giải nghĩa bằng tiếng Pháp cả hai Hành trình đường bộ và Hành trình đường thủy (sông, biển); cuối cùng, nghiên cứu, phụ bổ các chú giải địa lý, lịch sử và khảo cổ trên các vùng đất mà G. Dumoutier đã đi qua trên hai hành trình bằng việc đối chiếu Tập Hải đồ với các bản đồ đương đại (cuối thế kỷ XIX). Qua việc nghiên cứu bằng phép đối chiếu bản đồ và đi thực tế, tác giả đã nêu lên những thay đổi khá quan trọng từ ba thế kỷ tại một số điểm miền duyên hải Trung kỳ và Bắc kỳ so với những trầm tích của các dòng sông.</p>

<p>G. Dumoutier chia Tập Hải đồ làm bốn phần:</p>

<p>Phần I - Dịch và chú giải các tài liệu, phụ lục kèm theo Tập Hải đồ gồm đường hành quân từ Thăng Long đến kinh đô của Champa (Hành trình đường bộ) và đường sông, đường biển cùng các chỉ dẫn hàng hải (Hành trình đường thủy). Vì vậy, công trình này không chỉ cho ta biết địa hình, địa mạo, đặc điểm bờ biển Việt Nam và các cửa sông, hải cảng từ tỉnh Thanh Hóa đến tỉnh Bình Thuận trên Tập Hải đồ mà còn cho biết rất rõ từng cung đường, kho, xưởng, mỏ quặng, núi, sông ở các làng xã vùng đồng bằng và cả nhiều ngả miền núi khác nhau của nước Đại Việt.</p>

<p>Phần II - Phiên âm, dịch, giải nghĩa các địa danh và các chỉ dẫn được ghi trên từng tờ bản đồ. Đây là phần lý thú vì G. Dumoutier đã dịch và giải nghĩa các địa danh, danh xưng trên mỗi bản đồ và lập nên một bảng tương ứng với các số đã được đánh thứ tự để người xem dễ đối chiếu và tiện theo dõi. Trong phần này tác giả đã lập 25 bảng chú thích (đánh số La-tinh) tương ứng với 25 bản đồ (đánh số La-mã).</p>

<p>Phần III - Phần khảo cứu của G. Dumoutier, với phương pháp đối chiếu so sánh các cửa sông, hải cảng trên Tập Hải đồ với các bản đồ đương thời (cuối thế kỷ XIX) mà tác giả gọi là Bản đồ Bộ Tham mưu cùng với các cuộc du khảo thực tế. Nội dung phần khảo cứu này, tác giả đã nêu lên những đổi thay khá quan trọng từ các công trình nhân tạo như thành lũy ở Hà Nội, những đoạn đê phải đắp lại do lũ lụt, những ngôi đền, chùa và các chiến lũy xưa kia chỉ còn dấu tích, cả những con sông đã chuyển dịch theo thời gian, hay bờ biển bị xâm lấn...</p>

<p>Phần IV - Một tập gồm 24 tờ bản đồ có đánh số La-mã từ I đến XXIV, đính kèm riêng biệt, có ghi bằng chữ Hán, hoặc Nôm. Mặc dù những bản đồ này làm cơ sở chính và là xương cốt chính cho công trình nghiên cứu các cửa sông, hải cảng Việt Nam ở thế kỷ XV của G. Dumoutier nhưng trên đó, không chỉ có các cửa sông, hải cảng của nước Đại Việt dọc từ bắc miền Trung đến Trà Bàn, cố đô Champa (tỉnh Ninh Thuận ngày nay) mà còn có trục đường cái quan làm điểm nhận biết và rất nhiều địa danh, tên gọi của các làng xã xưa kia, cùng rất nhiều thông tin như kho, xưởng, mỏ quặng, sông, núi... của nước Đại Việt.</p>

    Tải Sách là website thư viên sách chia sẻ tài liệu sách với nhiều định dạng pdf/epub/mobi/prc/azw3 được tổng hợp mới nhất. Bạn có thể đọc online hoặc download về các thiết bị di động, máy tính, máy đọc sách để trải nghiệm.

    Liên Hệ