<p>An Tĩnh Xưa</p>
<p>An Tĩnh xưa (chuyên khảo lịch sử về vùng Nghệ An-HàTĩnh xưa) được Le Breton soạn thảo trong thời gian giảng dạy và làm hiệu trưởng ở trường Quốc học Vinh (Collège de Vinh, 1924-1928), thành quả xứng đáng từ những lớp tham quan dã ngoại được tổ chức thường xuyên, kết hợp với sự giúp đỡ của nhiều đồng nghiệp, học trò và đặc biệt nhất là nỗ lực nghiên cứu, tìm hiểu, tổng hợp, phân tích tư liệu của ông.</p>
<p>Ngoài phần giới thiệu, mở đầu và kết luận, tác phẩm có hai Đề mục lớn (một số bản dịch khác gọi là Thiên); riêng Đề mục 2 có đến tám chương. Đây thực sự là một công trình đồ sộ về tư liệu; khoa học về phương pháp nghiên cứu, diễn giải, và nhất là về tâm huyết, trí tuệ, như ông đã tự dẫn câu của chính mình làm đề từ: “Hiểu tức là yêu thương; yêu thương tức là hiểu. Hai lời lẽ này dựa vào nhau, cần biết gắn lại với nhau bằng một bàn tay khỏe mạnh và khéo léo”. Khi tiếp xúc với tác phẩm này, nhiều người đã khẳng định ngay giá trị không thể chối cãi của nó.</p>
<p>ĐÁNH GIÁ/NHẬN XÉT CHUYÊN GIA</p>
<p>“Công trình nghiên cứu của H. Le Breton mang lại sự đóng góp tích cực vào việc tìm hiểu vùng này. Quá khứ sẽ giải thích hiện tại”</p>
<p>Yves-C. Châtel
Phó Toàn quyền Đông Dương</p>
<p>“Le Vieux An-Tinh là một tuyệt tác chuyên khảo lịch sử”</p>
<p>Giáo sư Philippe Papin</p>
<p>“Đây là một tài liệu có giá trị và bổ ích cho người học, người
nghiên cứu”</p>
<p>PGS.TS. Chương Thâu</p>
<p>TRÍCH ĐOẠN HAY</p>
<p>Ở An Tĩnh có câu tục ngữ phổ biến: “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”. Ý muốn nói rằng: “Thanh Hóa dựa vào sự ưu ái của nhà vua, thì xứ Nghệ được các vị quan đại thần chiếu cố”.</p>
<p>Thật vậy, mãi cho đến ngày nay, Thanh Hóa vẫn là xứ hưởng được nhiều đặc ân vì tỉnh này là cái nôi của triều đại đương kim trị vì.</p>
<p>Nhưng An Tĩnh không vì thế mà ganh tị vì mảnh đất này đã sản sinh ra nhiều bậc đại trí thức giàu lòng độ lượng sẵn sàng che chở, và những vị đại thần này đã được ngưỡng mộ tột cùng, không gì so sánh nổi. Nghệ An được cái vinh quang là có những ngôi đền đẹp nhất nước An Nam.</p>
<p>Một phương ngôn khác đã nhắc tới tên các ngôi đền này:</p>
<p>Đền Cờn, đền Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng.</p>
<p>An Tĩnh không những giàu về truyền thuyết mà còn giàu cả cái vinh quang của mình nữa. Tôi có thể chắc chắn rằng không có tỉnh nào khác lại có được một vai trò lớn lao như thế trong lịch sử của quốc gia Đại Việt (tức Nam Việt), ít nhất cũng đến thế kỷ XV.</p>
<p>(trích Lời mở đầu)</p>
<p>Người An Nam rất kiêng gọi tên húy của mình. Gọi họ bằng tên húy tức là làm nhục họ. Vì thế họ giữ kín tên húy của mình mà chỉ dung tên mượn mà thôi. Ví như lấy tên con để gọi cha, lấy chức vụ, hàm tước, nghề nghiệp... để gọi tên. Gọi kẻ bề trên, kẻ ngang hàng bằng tên của họ là chửi bới họ. Vả lại, ở châu Âu, cũng có cái na ná như vậy?</p>
<p>Vì thế chúng ta không lấy làm lạ rằng một điều tuyệt đối cấm kỵ là không được gọi hoặc viết tên húy của một hoàng đế. Nhưng để hiểu rõ hơn điều cấm kỵ này, chúng ta cần biết rằng mỗi ông vua có ít nhất năm tên hoặc hiệu:</p>
<p>1. Niên hiệu: hiệu về những năm nhà vua ấy trị vì.</p>
<p>2. Tên riêng: tên của nhà vua trước khi lên ngôi. Gọi là tên tự.</p>
<p>3. Tên riêng khi đang ở ngôi vua: gọi là ngự danh.</p>
<p>4. Tên ghi trên bài vị thờ trong miếu, gọi là miếu hiệu, đó là tên được đặt sau khi nhà vua chết mà trong các biên niên sử hay dùng.</p>
<p>5. Tên thụy (tên hèm): là tên đặt cho người đã mất, cầu phúc cho người qua đời. Tên này hay được ghi ở trang đầu của biên niên sử.</p>
<p>Chỉ hai loại tên riêng (2 và 3) mới phải kiêng kỵ. Những thí sinh trong các kỳ thi theo chế độ giáo dục truyền thống đã bị bãi bỏ ở Bắc kỳ vào năm 1915, ở Trung kỳ vào năm 1919, nhất thiết phải tránh việc đưa những tên ấy vào các bài thi của mình; nếu không họ sẽ bị trừng phạt: không được dự thi, hoặc bị bỏ tù.</p>
<p>(trích Chương V. Lưu vực sông Lam)</p>
<p>VỀ TÁC GIẢ</p>
<p>Hippolyte Le Breton</p>
<p>Hippolyte Le Breton sinh năm 1881 ở Le Havre (Normandie). Ông từng học ở trường Sư phạm Rouen, trường Sư phạm thuộc địa Jules Ferry, qua Đông Dương vào ngày 25/10/1908 bằng đường biển (thời đó đi mất khoảng 25 ngày); giảng dạy và làm hiệu trưởng ở nhiều trường học khác nhau trên xứ Đông Dương; nơi cuối cùng ông phụ trách là trường Trung học Albert Sarraut ở Hà Nội. Ông nghỉ hưu vào ngày 12/6/1936, sau đó trở về Pháp; rất tiếc là đến nay vẫn chưa xác định được năm ông qua đời.</p>
<p>Hai mươi tám năm ở Việt Nam, ngoài việc dạy học và làm quản lý, ông còn miệt mài đi và viết, đã công bố đến 29 công trình nghiên cứu trên các tạp chí như Đông Dương (Revue Indochinoise), Nam Phong, Thái Bình Dương (Revue du Pacifique), và Tập san Những người bạn cố đô Huế; ngoài ra, còn chuẩn bị 9 di cảo...</p>