Kinh A Di Đà: Con Đường Phát Triển của Phật Giáo Đại Thừa
Kinh A Di Đà, một kinh điển Đại thừa, là minh chứng cho sự phát triển không ngừng của Phật giáo. Như một cây đại thụ, đạo Phật luôn sinh động, vươn lên, mỗi ngày một thêm cành lá, hoa trái. Kinh A Di Đà chính là một trong những trái ngọt ấy, phát triển từ cội nguồn Phật giáo Nguyên thủy.
Kinh A Di Đà: Một Giáo Lý Phổ Biến Cho Mọi Căn Trí
Tác giả không muốn đạo Phật trở thành một cái xác khô, nằm yên trong viện bảo tàng, mà là một thực tại sống động, mỗi ngày đều có thêm sức sống. Kinh A Di Đà được đọc tụng rộng rãi trong các chùa, từ Thiền tông đến các phái khác, bởi lẽ giáo lý của nó rất dễ thực tập. Những người không có căn trí lớn, những người không đủ Niệm, Định, Tuệ cũng có thể thực hành được Kinh A Di Đà.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những người có căn trí lớn không thể thực tập. Kinh A Di Đà có thể được hiểu rất sâu, cũng có thể được hiểu rất cạn. Người hiểu sâu cũng có thể thực tập, người hiểu cạn cũng có thể thực tập.
Niệm Bụt: Năng Lượng Tiềm ẩn trong Mỗi Con Người
Niệm “Nam mô A Di Đà Phật” hay “Nam mô Bụt A Di Đà” là một hành trì có thể mang lại hiệu quả bất ngờ. Người có căn trí lớn có thể đạt được những sở kiến và sở đắc to lớn, trong khi người có căn trí nhỏ hơn cũng có thể nhận được những lợi ích, dù ít hơn. Hiệu quả của câu niệm Bụt phụ thuộc vào sự vững chãi của Niệm và Định của mỗi người.
Khám Phá Kinh A Di Đà: Một Chuyến Hành Trình Về Tịnh Độ
Mục lục:
Bụt tại mười phương
Vài chi tiết về kinh A Di Đà
Tịnh nhiễm do tâm
Khổ vui tương tức
Diệu dụng pháp thân
Tích môn và bản môn
Đạo tràng lý tưởng
Gió chim thuyết pháp
Tạo lập Tịnh Độ
Nắm lấy danh hiệu
Đã về đã tới
Hoa sen chín phẩm
Thiền tịnh không hai
Gạn đục khơi trong
Ba nguồn năng lượng
Trích đoạn sách: Vài chi tiết về kinh A Di Đà
Trước khi đi sâu vào kinh A Di Đà, chúng ta cần nắm rõ một vài chi tiết:
Niệm Bụt - Một Phương Pháp Thực Tập Cổ Đại: Trong đạo Phật Nguyên thủy, niệm Bụt đã là một phương pháp quan trọng. Niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên đều là những phương pháp thực tập có ngay trong thời Đức Phật tại thế. Phương pháp này được gọi là Tùy niệm, và ngay trong thời Bụt tại thế đã có nhiều Phật tử thực tập niệm Bụt.
Mười Danh Hiệu Của Đức Như Lai: “Namo tassa bhagavato arahato sammà sambuddhassa” (Kính lạy Đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, bậc Chánh Biến Tri).
Bhagavato: Thế Tôn
Arahat: Ứng Cúng
Chánh Biến Tri là Sammà Sambuddhassa.
Mười danh hiệu: “Đức Như Lai là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Bụt, Thế Tôn”.
Tùy Niệm Bụt - Từ Thực Tại Ngoài Vào Bên Trong Tâm: Nguyên tắc của pháp môn niệm Bụt là hành giả phải nghĩ rằng Bụt là một thực tại ngoài mình, như Ngài đang cư trú ở tu viện Kỳ Viên hay trên núi Thứu. Khi niệm Bụt như vậy, tự nhiên mình tiếp xúc được với sự thảnh thơi và vững chãi, với chất liệu Từ, Bi, Hỷ và Xả trong con người của mình. Từ từ, Bụt sẽ trở thành một thực tại vừa ở trong, vừa ở ngoài, vì trong tâm thức của ta cũng có những hạt giống của vững chãi và thảnh thơi, của Từ, Bi, Hỷ, Xả, của Ứng Cúng, của Chánh Biến Tri, của Minh Hạnh Túc... như Bụt.
Duy Tâm Tịnh Độ - Bụt Luôn Có Mặt Trong Tâm Ta: Khi ta giỏi, ta nhận thức ra rằng Bụt luôn luôn có mặt trong tâm ta. Ngài không bao giờ mất. Dù Bụt ở trong Tịnh Độ hay Bụt ở ngoài Tịnh Độ thì Ngài vẫn luôn có mặt trong tâm ta, và khi đó, tâm ta chính là Tịnh Độ. Các thầy sau này đã nói rằng Bụt A Di Đà có mặt trong tâm mình và Tịnh Độ cũng có mặt ngay ở trong tâm mình. Đó gọi là “Duy tâm Tịnh Độ”.
Ba Nguồn Năng Lượng Để Dựng Nên Tịnh Độ
Chúng ta đi tới cõi Tịnh Độ và thiết lập cõi Tịnh Độ bằng cách nào? Muốn đi tới cõi Tịnh Độ hay thiết lập cõi Tịnh Độ của Tăng thân, chúng ta phải hội đủ ba yếu tố hay ba nguồn năng lượng:
Niềm tin: Ta tin tưởng rằng khổ đau của ta có thể được chuyển hóa bằng những con đường thoát ly sinh tử. Tịnh Độ là một trong những con đường ấy. Niềm tin này hoàn toàn không phải là những ý niệm căn cứ trên những suy nghĩ vu vơ, mà được căn cứ trên nền tảng của lý trí và sự chiêm nghiệm của chính mình. Niềm tin đó gọi là chánh tín, chứ không phải là mê tín.
Bản nguyện: Bất cứ một bậc đại nhân hay một vị cao tăng nào cũng đều có bản nguyện trong sự tu tập. Và do có bản nguyện, các Ngài mới thiết lập được một cõi Tịnh Độ hay một Tăng thân để cùng nhau nương tựa và tu tập. Bản nguyện nào cũng được tạo ra từ hai chất liệu:
Buông bỏ: Buông bỏ hệ lụy khổ đau. Buông bỏ mọi sự vẩn đục trong đời sống.
Hân thích: Hân thích là mong muốn đi tới sự an lạc, với hạnh phúc, với năm chất liệu thanh trong của Tịnh Độ.
Sự thực hành: Thực hành Tịnh Độ tức là biến niềm tin và bản nguyện Tịnh Độ trở thành hiện thực trong đời sống hàng ngày, bằng cách niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nghĩa là luôn luôn nuôi dưỡng chánh niệm trong từng giây từng phút, để các vọng tâm không có điều kiện sinh khởi. Mỗi khi thực hành đời sống Tịnh Độ, đạt tới nhất tâm bất loạn, thì Tịnh Độ hiện tiền. Bấy giờ dầu ta không cầu sinh Tịnh Độ mà Tịnh Độ vẫn hiện bày trong đời sống của ta. Tịnh Độ chỉ là sự chuyển hóa năm thuộc tính vẩn đục của Ta Bà thành năm chất thanh trong của Tịnh Độ. Mỗi ngày, trong ta, chất vẩn đục được gạn lọc bao nhiêu, thì chất liệu Tịnh Độ trong ta được lưu xuất bấy nhiêu. Do đó, mỗi tiếng niệm Bụt, mỗi tiếng niệm Pháp, mỗi tiếng niệm Tăng đều có công năng tạo ra nguồn năng lượng hóa giải những yếu tố vẩn đục trong ta, tháo gỡ những hệ lụy khổ đau trong ta, đưa ta đi tới với tự do, với hạnh phúc, với an lạc. Hay nói cách khác, mỗi tiếng niệm Bụt của ta là nguồn năng lượng đưa ta đi tới với Tịnh Độ và với Tăng thân.
Bởi vậy, Tín, Nguyện và Hạnh là ba yếu tố căn bản để dựng nên Tịnh Độ, nơi nương náu cho ta và cho biết bao nhiêu kẻ khác.