<p>Tác giả: Vũ Hạnh</p>
<p>Tên thật Nguyễn Đức Dũng</p>
<p>Sinh ngày 15/07/1926</p>
<p>Quê quán: xã Bình Nguyên, huyện Thăng Bình, Quảng Nam</p>
<p>Bút danh khác: Hoàng Thanh Kỳ, cô Phương Thảo, Minh Hữu, Nguyên Phủ, A.Pazzi</p>
<p>Các tác phẩm đã xuất bản:</p>
<p>Tuyển tập: Bút máu, Chất Ngọc, Vượt thác, Người chồng thời đại.</p>
<p>Truyện dài: Lửa rừng, cô gái Xà – Niêng, Tính sổ cuộc đời, Con chó hào hùng, Ngôi trường đi xuống.</p>
<p>Tiểu luận, phê bình: Đọc lại truyện Kiều, Tìm hiểu văn nghệ, Cha mẹ bơ vơ, Tuổi trẻ nổi loạn, Người Việt cao quý.</p>
<p>Quá trình hoạt động:</p>
<p>Năm 1945: Tham gia Mặt trận Việt Minh, thành lập đoàn Kịch võ trang tuyên truyền trong Ủy ban Tổng khởi nghĩa giành chính quyền huyện Thăng Bình.</p>
<p>Năm 1946: Khi thực dân Pháp quay lại mong tái chiếm Việt Nam, ông thành lập đoàn Kịch Tuyên truyền kháng chiến, rồi tiếp tục dạy văn ở các trường Thăng Bình, Quế Châu, Phan Chu Trinh.</p>
<p>Năm 1954: Sau Hiệp định Genève, ở lại hoạt động, đấu tranh đòi hiệp thương Bắc Nam và bị bắt giam ở nhà lao Thăng Bình và nhà lao Hội An.</p>
<p>Năm 1956: Cuối 1956, thoát khỏi nhà lao Hội An, vào Sài Gòn, đấu tranh bằng con đường báo chí, được Khu ủy Sài Gòn – Gia Định giao nhiệm vụ hoạt động đơn tuyến công khai ở nội thành Sài Gòn, với bí danh là Ba Thật.</p>
<p>Năm 1966: Vũ Hạnh là Tổng thư ký Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc, một tổ chức cách mạng thành lập ngay giữa thủ đô ngụy quyền.</p>
<p>Năm 1969: Khi Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam sắp thành lập, ông được giao nhiệm vụ là Bộ trưởng Bộ Văn hóa nhưng trước khi ra vùng Giải phóng một ngày thì bị địch bắt. Đây là lần tù thứ tư trong năm lần dưới chế độ cũ.</p>
<p>Năm 1975: Sau 30/04/1975, ông là Tổng Thư ký Hội Liên hiệp – Văn học Nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh.</p>
<p>Năm 2007: Được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.</p>
<p>Bút máu</p>
<p>“Bút máu là tập truyện ngắn đặc sắc trong cuộc đời năm chục năm cầm bút của Vũ Hạnh. Bú máu như là tuyên ngôn của tác giả về văn chương nghệ thuật. Mười hai truyện ngắn trong tập sách này toát lên ý chí, nghị lực, lòng nhân ái của một nhà văn dấn thân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đọc Bút máu, dù là viết về chuyện xưa hay là trực tiếp nói chuyện đương thời, tôi cảm nhận văn chương Vũ Hạnh luôn tươi rói niềm tin vào cuộc sống, cào tình người; Vũ Hạnh không bao giờ lẫn lộn, thỏa hiệp giữa chính và tà, nhân nghĩa và phi nhân…” - Nhà văn Triệu Xuân</p>
<p>Trích đoạn:</p>
<p>Bút máu</p>
<p>Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưng Sinh ngày đêm khắc khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, Sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm, đang nằm nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn, Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh bèn gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông viết, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày Sinh tỉnh dậy, lòng lại khát khao cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại. Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư, nhưng vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số oan hồn đòi mạng. Từ đó, Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.</p>
<p>Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:</p>
<p>- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng có giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua tội ác mờ mịt nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ đến vật dục mà quên ái tình, khêu cho thiên hạ tiếc điều tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo? Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích, biết đâu chẳng dồn chất thành ngàn dãy Thiên Sơn? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.</p>